1. Khái quát về lực lượng sản xuất hiện đại
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực thực tiễn dùng trong sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất và sức lao động mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó quan trọng nhất là sức lao động.
Trong thời đại ngày nay, những thành tựu của khoa học – công nghệ đã góp phần quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất, góp phần làm hiện đại hóa trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trên tất cả các yếu tố cấu thành của nó. Vì vậy, khi nghiên cứu về lực lượng sản xuất, người ta rất chú ý phân tích đến tính hiện đại của lực lượng sản xuất. Nhiều ý kiến đề cập đến phán đoán của C.Mác về vai trò của khoa học với tư cách là lực lượng sản xuất trực tiếp, coi đó là đặc trưng cơ bản của lực lượng sản xuất hiện đại. Tuy nhiên, khi phân tích sự phát triển của lực lượng sản xuất, mặc dù nhấn mạnh đến vai trò của khoa học nhưng C.Mác không xem nhẹ vai trò của nhân tố người lao động. C.Mác vẫn coi người lao động là nhân tố quyết định trong lực lượng sản xuất. Để hiểu rõ điều này, trước hết cần phân tích quan điểm của C.Mác về khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Lực lượng sản xuất hiện đại có những đặc điểm cơ bản như sau:
2. Đặc điểm về khoa học
Trong lực lượng sản xuất hiện đại, khoa học được thẩm thấu vào tất cả các yếu tố cấu thành của nó, làm thay đổi đáng kể trình độ phát triển của lực lượng sản xuất so với những thời đại trước kia.
Nếu trước đây, C.Mác đã từng chỉ ra rằng tất cả công cụ lao động (như máy móc, đường sắt, điện báo, máy sợi con rọc di động …) đều là sản phẩm lao động của con người, do “bàn tay con người tạo ra” nên đều là “sức mạnh vật hoá của tri thức”…, C.Mác “coi khoa học trước hết như cái đòn bẩy mạnh mẽ của lịch sử, như một lực lượng cách mạng” thì đến trình độ phát triển của nền sản xuất hiện nay, tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. So với lực lượng sản xuất trước đây, lực lượng sản xuất hiện đại có một sự khác biệt lớn ở sự gắn kết các khâu, các giai đoạn của quá trình sản xuất. Nếu như trước đây, các máy móc, nhà xưởng hầu như tách rời với phòng thí nghiệm, với các cơ quan nghiên cứu khoa học thì ngày nay rất khó phân biệt hệ thống thiết bị khoa học, các phòng thí nghiệm với hệ thống máy móc của dây chuyền sản xuất và các xí nghiệp sản xuất công nghệ cao. Thậm chí, các máy móc khoa học tối tân nhất cũng được đưa ngay vào ứng dụng thực tế gần như ở dạng nguyên mẫu. Từ thời gian tạo ra sản phẩm ở phòng thí nghiệm đến thời gian tạo ra sản phẩm mang ra thị trường được rút ngắn chưa từng thấy. Doanh nghiệp, trường đại học và viện nghiên cứu tích hợp với nhau ngày càng chặt chẽ. Hơn nữa, ngày nay khoa học trong lực lượng sản xuất hiện đại không chỉ là khoa học – công nghệ mà còn cả khoa học xã hội, những tri thức về kinh tế học, khoa học quản lý, quy trình sản xuất, tài chính – ngân hàng, quảng cáo – tiếp thị, tâm lý học, mỹ học, ngôn ngữ học … ngày càng trở thành yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất hiện đại. Như vậy, khoa học đã không còn là những tri thức đơn thuần mà được thẩm thấu vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất vật chất. Đây là đặc điểm nổi bật dễ dàng nhận thấy của lực lượng sản xuất hiện đại.
C.Mác luôn nhấn mạnh đến tính động, thay đổi không ngừng của công cụ lao động và coi đó là một trong những thước đo về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: “Các tư liệu lao động (công cụ lao động) không những là cái thước đo sự phát triển sức lao động của con người mà còn là một chỉ tiêu của những quan hệ xã hội trong đó lao động được tiến hành”. Sở dĩ công cụ lao động là biểu hiện rõ nét nhất trình độ của lực lượng sản xuất vì bản thân các công cụ lao động là sự kết tinh những tri thức của con người đạt được trong mỗi thời kỳ nhất định. Tính hiện đại của công cụ lao động cũng có tính lịch sử – cụ thể. Trước đây, khi nói về vai trò của công cụ lao động, C.Mác nhấn mạnh đến công cụ lao động cơ khí. Ngày nay, tính hiện đại của công cụ lao động được thể hiện ở máy móc hiện đại với tính tự động hóa rất cao.
Ngoài công cụ lao động, C.Mác và Ph.Ăngghen còn nhấn mạnh đến những điều kiện vật chất cần thiết của quá trình lao động. Sự phát triển của nó cũng là biểu hiện cho trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của các phương tiện giao thông, đường sắt…bởi nó đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, bên cạnh những phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt; các phương tiện giao thông đường không, đường biển cũng góp phần quan trọng trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại nhất là việc đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hóa, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa sản xuất giữa các quốc gia trên thế giới. Phương tiện lao động hiện đại đã rút ngắn các quy trình sản xuất – trao đổi, giảm đáng kể chi phí sản xuất.
Ngoài ra, trong lực lượng sản xuất hiện đại, khoa học – công nghệ còn làm thay xuất hiện những đối tượng lao động mới, có tính năng vượt trội. Ngoài các đối tượng lao động cũ, trong lực lượng sản xuất hiện đại sẽ xuất hiện ngày càng nhiều những đối tượng lao động nhân tạo có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao, ít gây tổn hại đến môi trường cũng là một trong những đặc điểm quan trọng của lực lượng sản xuất hiện đại. Những đối tượng lao động nhân tạo được tạo ra bởi công nghệ vật liệu tiên tiến.
Trong nền sản xuất hiện đại, mỗi đơn vị sản phẩm có hàm lượng tri thức ngày càng tăng lên, hàm lượng vật liệu và năng lượng đầu vào ngày càng giảm đi đáng kể. Do đó, tác động của khí thải trong sản xuất năng lượng sẽ ít đi, làm giảm nguy cơ gây biến đổi khí hậu toàn cầu. Hơn nữa, việc sử dụng công nghệ cao làm cho lượng chất thải của sản xuất giảm mạnh, làm giảm tốc độ cạn kiệt tài nguyên, hơn nữa còn tiến tới triệt để tái chế chất thải, hướng tới nền sản xuất ít hoặc không có chất thải. Việc áp dụng các thành tựu mới của công nghệ sinh học sẽ hạn chế dùng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu hoá chất, do đó làm giảm ô nhiễm nguồn nước và suy thoái đất nông nghiệp, bảo tồn được đa dạng sinh học, giữ được cân bằng các hệ sinh thái …. Có thể nói, để phát triển lực lượng sản xuất trước đây, người lao động chủ yếu chỉ biết sử dụng, tiêu dùng những đối tượng lao động sẵn có trong tự nhiên nên các đối tượng lao động đều có xu hướng cạn kiệt dần nhưng lực lượng sản xuất hiện đại lại hướng đến sự tái tạo khi tạo ra “giới tự nhiên thứ hai” thay thế dần cho “giới tự nhiên thứ nhất”. Bằng việc sử dụng những vật liệu mới bằng công nghệ sinh học, công nghệ nano, công nghệ năng lượng…, lực lượng sản xuất hiện đại đã tạo ra những sản phẩm tiêu hao ngày càng ít năng lượng tự nhiên, ít gây tổn hại đến môi trường sinh thái, góp phần quan trọng trong việc phát triển bền vững. Đây chính là điểm khác biệt nổi bật của lực lượng sản xuất hiện đại so với lực lượng sản xuất trong những giai đoạn trước kia.
3. Đặc điểm về trình độ, tri thức
Trong lực lượng sản xuất hiện đại; trình độ, tri thức trở thành yếu tố quan trọng nhất của người lao động.
C.Mác đã chỉ rõ: “Lực lượng sản xuất là kết quả của nghị lực thực tiễn của con người” . Điều đó có nghĩa là lực lượng sản xuất chính là sản phẩm hoạt động của con người ở mỗi thời kỳ lịch sử. Trong tiến trình phát triển của lịch sử, trình độ, năng lực, kỹ năng của người lao động không ngừng được thay đổi và nâng cao. Vì thế, trình độ của người lao động ở xã hội sau bao giờ cũng cao hơn ở xã hội trước. Điều đó đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Người vô sản thuộc về xã hội có trình độ phát triển cao hơn, và bản thân họ cũng ở trình độ cao hơn người nô lệ”. Do đó, nếu trình độ của người lao động ở một chế độ xã hội kém thì chứng tỏ trình độ của lực lượng sản xuất ở chế độ đó cũng thấp kém. Vì vậy, để nhận thức được đúng đắn trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu phải căn cứ vào trình độ lao động, sản xuất của người lao động.
Trình độ của người lao động hiện đại được thể hiện qua tri thức, chất xám của họ kết tinh trong các sản phẩm lao động. Trong lực lượng sản xuất hiện đại, tri thức, chất xám trở thành yếu tố quan trọng nhất của người lao động. Không thể phủ nhận được trong bất cứ thời đại nào, khi tham gia vào quá trình sản xuất vật chất, người lao động phải có cả sức mạnh cơ bắp và sức mạnh trí tuệ. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, yêu cầu của những yếu tố này cũng khác nhau. Nếu trong giai đoạn sản xuất thủ công, sức mạnh cơ bắp, kinh nghiệm của người lao động là yếu tố quan trọng nhất; trong giai đoạn sản xuất cơ khí, động cơ, máy móc là yếu tố quyết định thì trong trong nền sản xuất hiện đại, toàn bộ quá trình sản xuất biểu hiện ra không phải như một quá trình phụ thuộc vào sức khỏe, thể chất hay kinh nghiệm, kỹ năng của người lao động mà với tư cách là sự ứng dụng những thành tựu của khoa học – công nghệ vào sản xuất. Sự ứng dụng đó có được là do tri thức, trí tuệ của người lao động mang lại. Do đó, việc tạo ra của cải vật chất ngày càng trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã hao phí mà phụ thuộc vào trình độ ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất. Sự thay đổi đó là xu thế khách quan, mang tính tiến bộ và ngày càng mở rộng. Nó làm cho tài nguyên thiên nhiên mặc dù vẫn là những thứ không thể thiếu trong nền sản xuất xã hội, nhưng không còn đóng vai trò quan trọng nhất. Mức đóng góp của tri thức và kỹ thuật, công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế ngày càng lớn. Do vai trò và vị trí của tri thức trong nhân tố người lao động ngày càng cao nên cơ cấu đầu tư để phát triển lực lượng sản xuất có những thay đổi đáng kể. Nếu như trước đây, người ta ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất như nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị kỹ thuật thì ngày nay, trong nền sản xuất hiện đại, tri thức, trí tuệ, kỹ năng của người lao động được đầu tư bởi những yếu tố đó được thẩm thấu vào tất cả các quy trình sản xuất, vào việc ứng dụng, cải tiến công cụ lao động… Như vậy, trong lực lượng sản xuất hiện đại, tuy nguồn vốn và lao động vẫn là những yếu tố cơ bản không thể thiếu nhưng của cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa vào tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp. Tri thức, trí tuệ là yếu tố chiếm ưu thế nổi bật, đánh dấu sự khác biệt về chất của người lao động hiện đại với người lao động trước kia. Chính sự gia tăng đáng kể của yếu tố tri thức, trí tuệ của người lao động đã làm thay đổi mạnh mẽ trình độ của lực lượng sản xuất hiện đại. Vì vậy, việc gia tăng tri thức của người lao động càng nhanh và có hiệu quả bao nhiêu thì lực lượng sản xuất càng phát triển bấy nhiêu.
Ngay từ thế kỷ XIX, C.Mác đã chỉ rõ:
Bồi dưỡng tất cả những phẩm chất của con người mang tính xã hội và sự sản xuất ra con người, với tư cách là con người, có những phẩm chất và những mối liên hệ và, do đó, có những nhu cầu hết sức phong phú, sự sản xuất ra con người với tư cách là sản phẩm mang tính chất chính thể nhất và vạn năng nhất của xã hội (bởi vì muốn sử dụng được nhiều vật dụng, con người phải có năng lực sử dụng chúng nghĩa là con người phải trở thành con người hết sức có văn hoá), đó cũng là những điều kiện của một nền sản xuất dựa trên tư bản.
Nhờ có tri thức của con người, lực lượng sản xuất hiện đại không chỉ có mặt ở trong các ngành sản xuất mới xuất hiện mà nó còn lan toả, cải tạo, đổi mới các ngành sản xuất cũ của nền kinh tế. Do đó, lực lượng sản xuất hiện đại tất yếu sẽ thay thế lực lượng sản xuất cũ qua sự phủ định biện chứng.
4. Đặc điểm về phân công lao động
Trong lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động xã hội ngày càng hợp lý và khoa học hơn.
Thực tiễn cho thấy, sự thay đổi của công cụ lao động dẫn đến sự thay đổi của của phân công lao động xã hội. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng khi lực lượng sản xuất ở trình độ thủ công thì nó mang tính cá nhân, còn khi đã đạt đến trình độ cơ khí hóa, nó mang tính xã hội. Tính chất cá nhân của lực lượng sản xuất theo Ph.Ăngghen tương ứng với những giai đoạn trước của xã hội tư bản với nền sản xuất manh mún, mang tính tự cấp, tự túc. Ph.Ăngghen viết:
Trước nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, tức là trong thời trung cổ, khắp nơi đều có nền sản xuất nhỏ mà cơ sở của nó là chế độ sở hữu tư nhân của những người lao động đối với những tư liệu sản xuất của họ; nông nghiệp của những tiểu nông, tự do hay nông nô, thủ công nghiệp ở thành thị. Những tư liệu lao động – đất đai, nông cụ, dụng cụ thủ công – là những tư liệu lao động của cá nhân, do đó nhất định chúng phải nhỏ bé, tí hon, có hạn. Cũng chính vì thế mà thường thường chúng thuộc về bản thân người sản xuất .
Như vậy, tư liệu sản xuất cá nhân gắn với nền sản xuất nhỏ, ứng với những giai đoạn mà lực lượng sản xuất còn ở trình độ thủ công với quy mô nhỏ và phân tán. Theo Ph.Ăngghen, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã biến những những tư liệu sản xuất nhỏ, phân tán thành những tư liệu sản xuất hùng mạnh, biến những tư liệu sản xuất do cá nhân thành những tư liệu sản xuất xã hội:
Thay cho guồng quay sợi, khung cửi dệt tay, búa thợ rèn là máy se sợi, máy dệt, búa chạy bằng hơi nước, thay cho xưởng thợ cá thể là công xưởng đòi hỏi lao động chung của hàng trăm, hàng nghìn công nhân. Cũng như tư liệu sản xuất, bản thân sự sản xuất cũng biến đổi từ chỗ là một loạt động tác phân tán thành một loạt động tác xã hội và sản phẩm cũng từ sản phẩm cá nhân biến thành sản phẩm xã hội.
Ngày nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại, phân công lao động đang thay đổi theo hướng tăng lao động trí óc, giảm lao động chân tay, mà điển hình là sự xuất hiện một dạng lao động mới – lao động công nghệ cao. Đây là loại lao động liên quan trực tiếp đến việc chế tạo, phát minh ra các loại máy móc, phương tiện kỹ thuật có sử dụng công nghệ hiện đại. Đòi hỏi đối với lao động công nghệ cao là có khả năng chế tạo, phát minh ra các loại máy móc, phương tiện kỹ thuật hiện đại để áp dụng vào sản xuất vật chất, không ngừng nâng cao năng suất lao động và tạo ra những sản phẩm đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững. Như vậy, phân công lao động trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại không còn phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề được đào tạo, nguồn lao động dồi dào hay lượng tư bản lớn như trước đây, mà ngày càng dựa nhiều hơn vào lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức, trong đó lao động công nghệ cao là một loại lao động trực tiếp sản xuất ra tri thức.
Sự phân công lao động tất yếu dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng ngày càng hợp lý hơn trong nền sản xuất hiện đại. Nếu như trước đây, khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp, chưa phát triển, số lượng “công nhân cổ xanh” (là những công nhân chủ yếu sử dụng sức lực cơ bắp và thực hiện một số thao tác vận hành máy móc khi lao động) chiếm đa số thì ngày nay, khi lực lượng sản xuất sản xuất đang ngày càng phát triển, số lượng nhân lực khoa học tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất được gọi là “công nhân cổ trắng” chiếm tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn “công nhân cổ xanh”. Những “công nhân cổ trắng” đó còn có tên gọi khác là công nhân tri thức. Thông qua họ cùng với những công cụ sản xuất hiện đại (vật hóa của tri thức), tri thức khoa học đã trực tiếp đi vào dòng sản xuất. Vì vậy, ở kết quả đầu ra của lực lượng sản xuất trước đây; hàm lượng tri thức, chất xám của người lao động tương đối thấp thì ngày nay, hàm lượng tri thức của người lao động kết tinh trong các sản phẩm ngày một gia tăng. Do đó, sản phẩm của lực lượng sản xuất hiện đại thường có giá trị gia tăng rất lớn.
Như vậy, sự phân công lao động xã hội trong lực lượng sản xuất hiện đại biến đổi theo hướng tăng đội ngũ lao động chất xám. Vai trò của người điều hành sản xuất ngày càng trở nên hết sức quan trọng, quyết định sự thành bại của các công ty, các tổ chức kinh tế bởi lẽ với những đòi hỏi khắt khe về năng lực và kỹ năng lao động, nền sản xuất hiện đại cũng sẽ loại trừ những cá nhân không đáp ứng được những yêu cầu đó. Sự phân công lao động xã hội tất yếu dẫn đến xu hướng lao động biến đổi theo hướng ngày càng mang tính xã hội hoá sâu sắc. Lao động được xã hội hoá thể hiện ở việc tổ chức sản xuất trực tiếp giữa các đơn vị sản xuất diễn ra trên một quy mô lớn với sự phân công lao động vừa đảm bảo khả năng chuyên môn hoá, vừa có khả năng phi chuyên môn hoá một cách rộng rãi.
Sự biến đổi nội dung và tính chất của lao động trong lực lượng sản xuất hiện đại cũng khiến cho lao động của con người đang tiến dần đến sự sáng tạo. Chúng ta biết rằng, trong các nền sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, lao động là một sự bắt buộc, bị thúc bách bởi những nhu cầu bên ngoài lao động và trở thành cái mà C.Mác gọi là “lao động bị tha hoá”. Ngày nay, với sự thay đổi nội dung và tính chất của lao động, chúng ta có thể hy vọng rằng, lao động không còn là một thứ nô dịch, lao động đang dần trở về đúng với bản chất đích thực của nó, tức là lao động đã thực sự trở thành một nhu cầu, là hoạt động tự do và sáng tạo của con người. Khoa học – công nghệ đã và đang tạo tiền đề cho việc thay đổi vị trí, chức năng của con người trong quá trình sản xuất. Với sự phát triển của khoa học – công nghệ, nhiều chức năng mà con người trực tiếp đảm nhận trong chu trình sản xuất trước đây được chuyển giao dần cho máy móc. Điều này đã giúp con người có thể giảm thiểu thời gian cho các hoạt động vật chất và dành nhiều thời gian hơn cho các hoạt động tinh thần, sáng tạo và hưởng thụ. Con người không còn bị cột chặt vào guồng máy sản xuất như trong nền kinh tế công nghiệp, mà họ được tự do hơn trong các hoạt động của mình. Khoa học – công nghệ đang góp phần tạo ra một hệ thống “khoa học – kỹ thuật – sản xuất ” thống nhất. Với hệ thống này, lao động ngày càng mang nhiều nội dung khoa học, trí tuệ và sáng tạo.
Như vậy, tính chất của lực lượng sản xuất phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ở trình độ thủ công, lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân; khi lực lượng sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hóa, máy móc ra đời, công nghiệp phát triển thì nó mang tính xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì tính chất xã hội hóa ngày càng cao.Do đó, trong lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động mang tính xã hội, sự đa dạng hóa ngành nghề cùng với sự xuất hiện những ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
5. Đặc điểm về tính toàn cầu hoá
Lực lượng sản xuất hiện đại có tính toàn cầu hoá.
Nhờ sự phát triển mạnh của công nghệ thông tin, nhất là mạng Internet, khoa học nói riêng và tri thức nói chung được phổ biến nhanh chóng, hầu như tức thời (online) với nhiều sự kiện khoa học trên toàn thế giới. Dòng tri thức, dòng công nghệ cùng với dòng vốn được lưu thông với tốc độ chưa từng có trên toàn thế giới. Người ta có thể sản xuất từng bộ phận cấu thành của một sản phẩm ở nhiều nơi trên thế giới, sau đó lắp ráp và lưu thông ở các nước khác nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, đầu ra của lực lượng sản xuất hiện đại không còn là sản phẩm riêng của lao động ở một quốc gia nữa mà là sản phẩm mang tính toàn cầu. Do đó, lực lượng sản xuất hiện đại trở thành một yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa. Đây là đặc điểm mới chỉ riêng có ở lực lượng sản xuất hiện đại mà lực lượng sản xuất ở các giai đoạn trước kia chưa có hoặc mới ở trong một phạm vi hẹp.
Như vậy, lực lượng sản xuất hiện đại có năm đặc điểm cơ bản như: trong lực lượng sản xuất hiện đại, khoa học được thẩm thấu vào tất cả các yếu tố cấu thành của nó, làm thay đổi đáng kể trình độ phát triển của lực lượng sản xuất so với những thời đại trước kia; trình độ, tri thức trở thành yếu tố quan trọng nhất của người lao động; trong lực lượng sản xuất hiện đại có sự phân công lao động xã hội hợp lý và khoa học; có sự thay đổi nhanh chóng công nghệ sản xuất làm xuất hiện ngày càng nhiều những đối tượng lao động mới, góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa của lực lượng sản xuất hiện đại. Những đặc điểm đó chính là thước đo đánh giá trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời đại ngày nay; đồng thời nó đánh dấu sự khác biệt về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại so với những giai đoạn lịch sử trước đó.
(Nguồn: Lê Thị Chiên, Luận án tiến sĩ triết học, 2017)