1. Thanh khoản của ngân hàng thương mại

“Tính thanh khoản, một khái niệm trong tài chính, chỉ mức độ mà một tài sản bất kì có thể được mua hoặc bán trên thị trường mà không làm ảnh hưởng nhiều đến giá thị trường của tài sản đó. Một tài sản có tính thanh khoản cao nếu nó có thể được bán nhanh chóng mà giá bán không giảm đáng kể”, thường được đặc trưng bởi số lượng giao dịch lớn (Keynes, 1930). Ví dụ, tiền mặt có tính thanh khoản cao, vì nó thường có thể được “bán” (để đổi lấy hàng hóa) với giá trị gần như không thay đổi. Chứng khoán hay các khoản nợ, khoản phải thu… có tính thanh khoản cao nếu chúng khả năng đổi thành tiền mặt dễ dàng. Cách gọi thay thế cho tính thanh khoản là tính lỏng, tính lưu động.
Như vậy, tính thanh khoản chỉ mức độ mà một tài sản bất kì có thể được mua hoặc bán trên thị trường mà không làm ảnh hưởng đến giá thị trường của tài sản đó. Một tài sản có tính thanh khoản cao nếu nó có thể được bán nhanh chóng mà giá bán của nó không giảm đáng kể, thường được đặc trưng bởi số lượng giao dịch lớn.
Tính thanh khoản của NHTM được xem như khả năng tức thời để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết.
Theo Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (2008) (Basel Committee on Bank Supervision, 2008), “thanh khoản là khả năng mà ngân hàng có thể tài trợ việc gia tăng của tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ đến hạn mà không gây ra những khoản tổn thất không thể chấp nhận được”. Vai trò cơ bản của ngân hàng trong việc chuyển hóa kỳ hạn của các khoản ký thác ngắn hạn sang các khoản cho vay dài hạn làm cho ngân hàng thường xuyên trong tình trạng dễ bị tổn thương trước rủi ro thanh khoản, về bản chất thể chế đặc thù và cả đối với thị trường với tư cách là một tổng thể. Theo Trương Quang Thông (2010): “một tài sản có tính thanh khoản cao khi chi phí chuyển đổi tài sản ấy thành tiền mặt thấp và thời gian chuyển đổi nhanh. Tương tự, nguồn vốn có tính thanh khoản cao khi chi phí huy động vốn thấp cùng với thời gian huy động nhanh”.
Dưới góc độ ngân hàng, thanh khoản được hiểu là khả năng ngân hàng đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh như: chi trả tiền gửi, cho vay, thanh toán và các giao dịch tài chính khác.
Cho tới nay, nghiên cứu của một số tác giả như Aspachs và cộng sự (2005), Rychtárik (2009), Praet và Herzberg (2008), Vodova (2011) đã tập trung vào 4 tỷ số thanh khoản như sau:
– Chỉ số tài sản thanh khoản / tổng tài sản
Một tỷ lệ tiền mặt càng cao càng đảm bảo cho ngân hàng có khả năng đáp ứng nhu cầu thanh khoản tức thời, nhờ đó mà rủi ro thanh khoản càng thấp. Tỷ lệ này càng cao thì khả năng hấp thụ các cú sốc thanh khoản càng lớn. Tuy nhiên, tỷ lệ này quá cao sẽ làm cho lợi nhuận của ngân hàng giảm xuống. Tài sản thanh khoản bao gồm tiền mặt và các khoản tương đương tại quỹ; tiền gửi tại NHNN; tiền, vàng gửi tại các TCTD khác và cho vay các TCTD khác.
– Chỉ số tài sản thanh khoản / tiền gửi khách hàng và vay ngắn hạn
Chỉ số này cho biết khả năng đáp ứng nghĩa vụ đến hạn của ngân hàng. Tỷ lệ này tập trung vào mức độ nhạy cảm của ngân hàng với nguồn vốn huy động được. Tiền gửi khách hàng và vay ngắn hạn gồm các khoản nợ Chính phủ và NHNN; tiền gửi và vay của các TCTD khác; tiền gửi khách hàng. Chỉ số này càng cao cho thấy khả năng thanh khoản của ngân hàng càng cao.
– Chỉ số cho vay / tổng tài sản
Chỉ số này cho biết tỷ lệ tài sản của ngân hàng tài trợ cho các khoản cho vay của ngân hàng. Cho vay được lấy từ cho vay và ứng trước khách hàng. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ ngân hàng cho vay càng nhiều, tài sản kém thanh khoản càng lớn dẫn đến tài sản thanh khoản của ngân hàng càng giảm dần.
– Chỉ số cho vay / tổng vốn huy động ngắn hạn
Chỉ số này cho thấy mối quan hệ giữa khoản cho vay và khoản nợ có tính thanh khoản của ngân hàng. Khoản mục huy động ngắn hạn gồm các khoản nợ Chính phủ và NHNN; tiền gửi và vay các TCTD khác; tiền gửi của khách hàng. Chỉ số này phản ánh số cho vay lớn gấp bao nhiêu lần số tiền huy động được. Tỷ lệ này càng cao thì thanh khoản của ngân hàng càng kém.
Trong 4 cách đo lường trên, tỷ lệ khoản cho vay trên tổng tiền gửi và vốn huy động ngắn hạn là chỉ số đánh giá khả năng của ngân hàng trong việc phân bổ nguồn thanh khoản vào hoạt động cho vay. Nếu tỷ lệ này cao cho thấy khả năng thanh khoản ngân hàng thấp; ngược lại, tỷ lệ này quá thấp thể hiện ngân hàng có thể chưa tận dụng hết nguồn vốn, hiệu quả sử dụng vốn không cao. Vì vậy, việc quản trị, cơ cấu nguồn thanh khoản của ngân hàng rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng. Nghiên cứu này tác giả sử dụng cách đo lường Chỉ số cho vay / tổng vốn huy động ngắn hạn để đo lường khả năng thanh khoản của các NHTMCP VN. Đây cũng là cách đo lường thanh khoản phổ biến nhất hiện nay. Một số nghiên cứu đã sử dụng cách đo lường này để làm biến phụ thuộc như nghiên cứu của Vodova (2013), Vũ Thị Hồng (2015).

2. Các yếu tố tác động đến thanh khoản

2.1 Nguyên nhân bên trong ngân hàng

2.1.1 Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (CAP)

Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản cho thấy tình trạng đủ vốn cũng như sự an toàn và lành mạnh của một ngân hàng. Tỷ lệ này thấp chứng tỏ ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài chính cao, điều này chứa đựng rất nhiều rủi ro và có thể làm cho lợi nhuận ngân hàng giảm khi chi phí vốn vay cao. Các nghiên cứu của các tác giả Bunda và Desquilbet (2003), Vodova (2011), Indriani (2004), Aspachs et al. (2005) cho thấy kết quả tác động cùng chiều của tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản đến khả năng thanh khoản. Ngược lại, các nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Linh (2016), Trương Quang Thông và Phạm Minh Tiến (2014) lại cho thấy tương quan âm giữa tỉ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản đến khả năng thanh khoản. Các tác giả giải thích rằng các NHTMCP với uy tín, thương hiệu tốt trên thị trường cùng với nguồn vốn chủ sở hữu tốt tạo được niềm tin từ phía khách hàng, từ đó có thể giảm chi phí huy động, tạo nguồn cung thanh khoản. Vì thế các ngân hàng có thể đẩy mạnh nguồn vốn kinh doanh mà giảm phần dự trữ các tài sản thanh khoản, tuy nhiên điều này lại làm tiềm ẩn rủi ro thanh khoản cao. Trong khi đó, các ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu
thấp buộc phải duy trì một tỷ lệ thanh khoản cao để đảm bảo khả năng thanh toán vì thế ít rủi ro hơn.

2.1.2 Lợi nhuận ngân hàng (ROA)

Một số chỉ số tài chính thể hiện lợi nhuận của ngân hàng sử dụng trong các nghiên cứu trước đây như: ROA – khả năng sinh lợi trên tổng tài sản, ROE – khả năng sinh lợi trên vốn chủ sở hữu, NIM – tỷ lệ thu nhập lãi cận biên…Trong luận văn này tác giả sử dụng ROA là chỉ số đại diện cho lợi nhuận ngân hàng vì chỉ số này cho thấy được khả năng tạo ra lợi nhuận ngân hàng trên tổng thể các nguồn vốn, không phân biệt nguồn vốn nào nên có cái nhìn toàn diện hơn. Bên cạnh đó, dựa trên ROA có thể so sánh hiệu quả hoạt động giữa các ngân hàng có cùng độ rủi ro, vì chỉ số này loại trừ sự khác biệt về chính sách thuế cũng như đòn bẩy tài chính mà ngân hàng đang sử dụng Kupiec và Lee (2012). Theo Hassan et al. (2003) cho rằng, ROA vừa chịu tác động của hiệu quả tiết kiệm chi phí, vừa chịu tác động của hiệu quả sử dụng tài sản, thể hiện hiệu quả của từng đồng vốn đầu tư vào tài sản và quan trọng hơn là thể hiện khả năng của nhà quản trị trong việc sử dụng các nguồn tài chính và đầu tư để sinh lợi. Lợi nhuận của ngân hàng chủ yếu được tạo ra từ hoạt động kinh doanh truyền thống, tức là chênh lệch lãi suất giữa cho vay và huy động vốn. Do vậy, ngân hàng càng nắm giữ nhiều tài sản để đáp ứng nhu cầu thanh khoản thì khả năng tạo ra lợi nhuận càng thấp và ngược lại (Aspachs et al. (2005)). Bên cạnh đó theo lý thuyết về sự ưa thích thanh khoản chứng minh rằng việc nắm giữ tiền mặt (để đảm bảo thanh khoản) một phần là do động cơ giao dịch và do đó ngân hàng mất đi cơ hội sinh lời để đổi lấy sự an toàn thanh khoản. Các nghiên cứu cho rằng tỷ lệ lợi nhuận và khả năng thanh khoản tác động ngược chiều bao gồm: Valla và Escorbiac (2006), Vodova (2011). Ngược lại Nguyễn Thị Mỹ Linh (2016) cho rằng tỷ lệ lợi nhuận và khả năng thanh khoản tác động cùng chiều.

2.1.3 Quy mô ngân hàng (SIZE)

Quy mô ngân hàng được đo lường bằng cách lấy logarit tự nhiên của tổng tài sản. Đây là nhân tố rất quan trọng đối với khả năng thanh khoản của ngân hàng bởi vì quy mô ảnh hưởng đến chi phí và trạng thái thanh khoản sẵn có. Về mặt lý thuyết quy mô ngân hàng có tổng tài sản càng lớn thì thanh khoản sẽ tốt hơn. Bên cạnh đó, ngân hàng lớn lại có lợi thế hơn khi tiếp cận với thị trường liên ngân hàng, hay được hỗ trợ thanh khoản từ phía “Người cho vay cuối cùng – Lender of last resort (Vodova. P, 2013b). Tuy nhiên một số quan điểm cho rằng, ngân hàng có quy mô lớn có thể giảm thiểu chi phí huy động vốn và điều đó cho phép ngân hàng mạnh dạn cho vay hoặc đầu tư vào những tài sản nhiều rủi ro hơn để tìm kiếm lợi nhuận, do vậy làm cho họ dễ bị gặp rủi ro thanh khoản (C. Rauch et al, 2010). Kết quả một số nghiên cứu thực nghiệm cho thấy quy mô có tác động cùng chiều với thanh khoản (O. Aspachs et al, 2005), (Chikoko Laurine, 2013). Tuy nhiên, một số nghiên cứu có kết quả ngược lại, quy mô tác động ngược chiều đến thanh khoản (Bunda & Desquilbet, 2008), (Doriana Cucinelli, 2013), (Vodová. P, 2013) (C. Rauch et al, 2010). Từ những lý thuyết, lập luận ở trên tác giả đưa ra giả thuyết về mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô tài sản và thanh khoản của ngân hàng.

2.1.4 Tỉ lệ dự phòng rủi ro tín dụng (LLR)

Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng luôn chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động tín dụng lại có nhiều rủi ro nhất. Trong hoạt động tín dụng, NHTM luôn đặt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đồng thời tối thiểu hóa rủi ro. Với bất kì khoản tín dụng nào, NHTM cũng phải đối mặt với rủi ro về sự vi phạm nghĩa vụ từ phía đối tác, mang đến tổn thất tài chính cho ngân hàng. Và việc đầu tiên đó là phải trích lập dự phòng cho những khoản nợ xấu. Đối với NHTMCP Việt Nam cơ sở để trích lập dự phòng rủi ro tín dụng khác so với một số tổ chức trên thế giới, NHTMCP Việt Nam trích lập dự phòng rủi ro tín dụng chủ yếu dựa vào thời gian quá hạn của các khoản cho vay mà không dựa vào xếp hạng tín dụng nội bộ. Trong khi theo IMF, cơ sở để trích lập dự phòng rủi ro đều qua chỉ số lành mạnh tài chính (Financial Soundness Indicators- FSIs), ngoài thời gian quá hạn khoản cho vay còn tính luôn những khoản cho vay có dấu hiệu không thu hồi được, kể cả việc thay thế bằng khoản vay mới. Theo Basel II, cơ sở để trích lập dự phòng rủi ro là tính luôn cả các khoản mất mát có thể xảy ra trong tương lai. Việc trích lập các khoản dự phòng làm hạn chế lượng tiền lưu thông trong ngân hàng dẫn đến khả năng thanh khoản thấp. Nghiên cứu của Lucchetta (2007) và Nguyễn Thị Mỹ Linh (2016) cho thấy mối liên hệ ngược chiều của trích lập dự phòng rủi ro tín dụng với thanh khoản. Từ những lập luận trên, tác giả đưa ra kì vọng mối quan hệ ngược chiều giữa dự phòng rủi ro tín dụng và thanh khoản của ngân hàng. Biến ngân hàng niêm yết (DUMMY – LISTED Di)
Theo lý thuyết, những ngân hàng có cổ phiếu được niêm yết trên sàn chứng khoán sẽ giúp cho ngân hàng dễ dàng huy động vốn từ các nhà đầu tư để gia tăng nguồn cung thanh khoản và đồng thời tăng vốn cấp 1 nhằm đáp ứng các điều kiện của Basel hiện hành và nâng cao năng lực quản trị ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng niêm yết còn có những lợi thế khác như: trong hoạt động của mình ngân hàng thường nắm giữ tài sản thanh khoản (dưới dạng các chứng khoán kinh doanh) sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường tài chính để đáp ứng nhu cầu thanh khoản (Nguyen M., Skully M. & Perera S, 2012), ngân hàng niêm yết sẽ giúp cho cổ đông dễ dàng chuyển nhượng cổ phiếu đang nắm giữ, qua đó tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu. Tuy nhiên, trong bối cảnh tại Việt Nam các ngân hàng cần phải lựa chọn điều kiện và thời điểm niêm yết phù hợp mới phát huy lợi thế của ngân hàng niêm yết. Ngược lại, nếu trong điều kiện hiệu quả kinh doanh chưa cao, các chỉ số ROE và ROA thấp hơn mức trung bình ngành, trong khi nợ xấu còn ở mức cao thì sẽ ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của ngân hàng. Bên cạnh đó, do quá trình niêm yết kèm theo các điều kiện ràng buộc nên hầu hết ngân hàng niêm yết tại Việt Nam đều là những ngân hàng có quy mô vốn chủ sở hữu và quy mô tài sản lớn, hoạt động ổn định và có hiệu quả. Từ những lý thuyết và những lập luận ở trên, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa các NHTMCP đã niêm yết sẽ ảnh hưởng cùng chiều đến thanh khoản.

2.2 Nguyên nhân bên ngoài ngân hàng

2.2.1 Tăng trưởng kinh tế (GDP)

Mối quan hệ giữa GDP và thanh khoản của ngân hàng được xem xét trong điều kiện cụ thể của nền kinh tế. Trong thời kỳ nền kinh tế suy thoái thì ngân hàng sẽ giữ nhiều tài sản thanh khoản hơn khi cho rằng cho vay sẽ gặp nhiều rủi ro hơn. Ngược lại, trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh, ngân hàng lại có xu hướng giảm dự trữ tài sản thanh khoản để có thể cho vay nhiều hơn, trong khi huy động có thể giảm sút do dân chúng thường đầu tư vào lĩnh vực khác và được kỳ vọng có tỷ suất sinh lời cao hơn so với gửi tiền ngân hàng (Chung-Hua Shen et al, 2009). Kết quả nghiên cứu của Dinger. V (2009) cũng cho thấy trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế ngân hàng nắm giữ ít tài sản thanh khoản, kết quả này được giải thích: (i) là thực tế các cú sốc thanh khoản ít xảy ra trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế; (ii) trong thời kỳ nền kinh tế vững mạnh nhu cầu vay vốn cao hơn do đó chi phí cơ hội để nắm giữ tài sản thanh khoản sẽ cao hơn. Tuy nhiên, một số lập khác lại cho rằng trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hiệu quả, nguồn lực tài chính doanh nghiệp dồi dào hơn và khả năng thanh toán nghĩa vụ nợ (trong đó có các khoản vay ngân hàng) tốt hơn, từ đó làm gia tăng nguồn cung thanh khoản cho ngân hàng. Từ những lý thuyết và kết quả nghiên cứu thực nghiệm ở trên tác giả đưa giả thuyết về mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và thanh khoản ngân hàng.

2.2.2 Lạm phát (INF)

Mối quan hệ giữa lạm phát và thanh khoản ngân hàng là một chủ đề còn khá nhiều tranh luận. Perry (1992) cho rằng quan hệ giữa thanh khoản và hiệu năng ngân hàng tùy thuộc vào mức độ kỳ vọng lạm phát. Nếu lạm phát được kỳ vọng hoàn toàn, ngân hàng có thể điều chỉnh lãi suất để gia tăng thu nhập lãi nhanh hơn so với mức độ gia tăng của chi phí lãi. Ngân hàng có thể gia tăng các khoản cho vay, trong khi do áp lực cạnh tranh, các hoạt động huy động vốn có thể sụt giảm, do đó làm giảm thanh khoản. Những kết quả nghiên cứu của Inoca Munteanu (2012) cho thấy lạm phát có tác động ngược chiều với thanh khoản. Trong khi các nghiên cứu khác như: nghiên cứu của Chikoko Laurine (2013) cho kết quả lạm phát lại tác động cùng chiều với thanh khoản và nghiên cứu của Doriana Cucinelli (2013) cho thấy lạm phát không ảnh hưởng đến thanh khoản của ngân hàng. Tại Việt Nam, lạm phát biến động rất mạnh và ở mức cao, đỉnh điểm của lạm phát là năm 2008 với tỷ lệ lạm phát 23,12% và lạm phát thấp nhất là năm 2015 chỉ với mức 0,63%. Lạm phát xảy ra ngoài dự kiến sẽ tạo nên biến động bất thường về giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá trị, ảnh hưởng đến mọi hoạt động kinh tế xã hội (lãi suất danh nghĩa tăng, ảnh hưởng đến tiết kiệm và đầu tư), từ đó ảnh hưởng đến mức tăng trưởng kinh tế. Từ lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm ở trên, tác giả đưa ra giả thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và thanh khoản của ngân hàng.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty Luật LVN Group