1.Đăng ký thỏa ước lao động tập thể là gì ?

Đăng ký thỏa ước lao động tập thể là ghi vào sổ quản lí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sau khi đã xem xét tính hợp pháp của thoả ước lao động tập thể.

Tuỳ theo tập quán của từng nước mà việc đăng kí thoả ước lao động tập thể được hay không được quy định trong pháp luật của quốc gia. Tại Việt Nam, ngay từ khi có quy định về thoả ước tập thể, vấn đề đăng kí thoả ước đã luôn được đề cập. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng kí khác nhau tuỳ theo từng thời kì, hoặc được quy định tại phòng lục sự của toà án tỉnh (Sắc lệnh số 29/SL năm 1947) hoặc được quy định tại Uỷ ban hành chính tỉnh (Nghị định số 72/CP năm 1963), sở lao động tỉnh (Bộ luật lao động năm 1994). Trước đây, việc đăng kí thoả ước tập thể đồng nghĩa với việc thừa nhận hiệu lực của thoả ước. Từ khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật lao động năm 2002, thời điểm có hiệu lực của thoả ước do các bên kí kết quyết định.

Pháp luật hiện hành quy định trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kí kết thoả ước lao động tập thể, người sử dụng lao động phải gửi bản thoả ước lao động tập thể và phụ lục kèm theo đến Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cấp tỉnh, nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp để đăng kí. Sau đó, nếu có sửa đổi, bổ sung thì thoả ước lao động tập thể phải được đăng kí lại. Cơ quan có thẩm quyền đăng Kí phải kiểm tra tính hợp pháp của thoả ước lao động tập thể, có nghĩa vụ hướng dẫn các bên làm lại thoả ước cho đúng quy định (nếu sai hoặc có nội dung vô hiệu), có quyền tuyên bố thoả ước vô hiệu (nếu có) và phải thông báo cho đơn vị kí kết thoả ước biết về việc đăng kí thoả ước.

2.Thỏa ước lao động tâp thể theo quy định pháp luật hiện hành

2.1 Khái niệm

Theo điều 75 của Bộ luật lao động năm 2019 quy định khái niệm của thỏa ước lao động tập thể cụ thể như sau

Thỏa ước lao động tập thể là thỏa thuận đạt được thông qua thương lượng tập thể và được các bên ký kết bằng văn bản.

Thỏa ước lao động tập thể bao gồm thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, thỏa ước lao động tập thể ngành, thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp và các thỏa ước lao động tập thể khác. Nội dung thỏa ước lao động tập thể không được trái với quy định của pháp luật; khuyến khích có lợi hơn cho người lao động so với quy định của pháp luật.

Thỏa ước lao động góp phần tạo dựng quan hệ lao động hài hòa về quyền và lợi ích giữa người sử dụng lao động và tập thể người lao động. Thỏa ước lao động tập thể tạo ra sự gắn bó đoàn kết giữa các cá nhân người lao động, các nhóm người lao động và tập thể lao động với nhau, qua đó hạn chế được xung đột và cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực lao động và trên thị trường người lao động – Thỏa ước lao động tập thể là một trong những biện pháp hữu hiệu để hạn chế xung đột và tranh chấp lao động, nhưng đồng thời nó cũng là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết tranh chấp lao động – Thỏa ước lao động tập thể là nguồn quy phạm bổ sung cho các quy định của luật lao động tại đơn vị, đồng thời góp phần hoàn thiện và phát triển pháp luật lao động

2.2 Về việc lấy ý kiến và ký kết thỏa ước lao động tập thể

– Đối với thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp, trước khi ký kết, dự thảo thỏa ước lao động tập thể đã được các bên đàm phán phải được lấy ý kiến của toàn bộ người lao động trong doanh nghiệp. Thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp chỉ được ký kết khi có trên 50% người lao động của doanh nghiệp biểu quyết tán thành.

– Đối với thỏa ước lao động tập thể, ngành, đối tượng lấy ý kiến bao gồm toàn bộ thành viên ban lãnh đạo của các tổ chức đại diện người lao động tại các doanh nghiệp tham gia thương lượng. Thỏa ước lao động tập thể ngành chỉ được ký kết khi có trên 50% tổng số người được lấy ý kiến biểu quyết tán thành. Đối với thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp, đối tượng lấy ý kiến bao gồm toàn bộ người lao động tại các doanh nghiệp tham gia thương lượng hoặc toàn bộ thành viên ban lãnh đạo của các tổ chức đại diện người lao động tại các doanh nghiệp tham gia thương lượng. Chỉ những doanh nghiệp có trên 50% số người được lấy ý kiến biểu quyết tán thành mới tham gia ký kết thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp.

– Thời gian, địa điểm và cách thức lấy ý kiến biểu quyết đối với dự thảo thỏa ước lao động tập thể do tổ chức đại diện người lao động quyết định nhưng không được làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của doanh nghiệp tham gia thương lượng. Người sử dụng lao động không được gây khó khăn, cản trở hoặc can thiệp vào quá trình tổ chức đại diện người lao động lấy ý kiến biểu quyết về dự thảo thỏa ước.

– Thỏa ước lao động tập thể được ký kết bởi đại diện hợp pháp của các bên thương lượng. Đối với bên doanh nghiệp người đại diện pháp luật đứng ra ký kết với tổ chức đại diện người lao động tại các doanh nghiệp. Trong trường hợp thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp được tiến hành thông qua Hội đồng thương lượng tập thể thì được ký kết bởi Chủ tịch Hội đồng thương lượng tập thể và đại diện hợp pháp của các bên thương lượng.

– Thỏa ước lao động tập thể phải được gửi cho mỗi bên ký kết và cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại Điều 77 của Bộ luật lao động năm 2019 như sau:

Điều 77. Gửi thỏa ước lao động tập thể

Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thỏa ước lao động tập thể được ký kết, người sử dụng lao động tham gia thỏa ước phải gửi 01 bản thỏa ước lao động tập thể đến cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi đặt trụ sở chính.

Đối với thỏa ước lao động tập thể ngành hoặc thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp thì từng người sử dụng lao động và từng tổ chức đại diện người lao động tại các doanh nghiệp tham gia thỏa ước phải được nhận 01 bản.

– Sau khi thỏa ước lao động tập thể được ký kết, người sử dụng lao động phải công bố cho người lao động của mình biết về thỏa ước lao động tập thể.

3.Thời điểm thỏa ước lao động tập thể có hiệu lực

Hiệu lực và thời hạn của thỏa ước lao động tập thể được quy định cụ thể như sau:

– Ngày có hiệu lực của thỏa ước lao động tập thể do các bên thỏa thuận và được ghi trong thỏa ước. Trường hợp các bên không thỏa thuận ngày có hiệu lực thì thỏa ước lao động tập thể có hiệu lực kể từ ngày ký kết. Thỏa ước lao động tập thể sau khi có hiệu lực phải được người sử dụng lao động và người lao động tôn trọng thực hiện các nội dung đã thỏa thuận trong thỏa ước lao động tập thể.

– Thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp có hiệu lực áp dụng đối với người sử dụng lao động và toàn bộ người lao động của doanh nghiệp. Thỏa ước lao động tập thể ngành và thỏa ước lao động tập thể có nhiều doanh nghiệp có hiệu lực áp dụng đối với toàn bộ người sử dụng lao động và người lao động của các doanh nghiệp tham gia thỏa ước lao động tập thể. Thỏa ước lao động tập thể có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm. Thời hạn cụ thể do các bên thỏa thuận và ghi trong thỏa ước lao động tập thể. Các bên có quyền thỏa thuận thời hạn khác nhau đối với các nội dung của thỏa ước lao động tập thể.

4.Thực hiện thỏa ước lao động tập thể tại doanh nghiệp

– Người sử dụng lao động, người lao động, bao gồm cả người lao động vào làm việc sau ngày thỏa ước lao động tập thể có hiệu lực, có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ thỏa ước lao động tập thể đang có hiệu lực.

– Trường hợp quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên trong hợp đồng lao động đã giao kết trước ngày thỏa ước lao động tập thể có hiệu lực thấp hơn quy định tương ứng của thỏa ước lao động tập thể thì phải thực hiện theo thỏa ước lao động tập thể. Quy định của người sử dụng lao động chưa phù hợp với thỏa ước lao động tập thể thì phải được sửa đổi cho phù hợp; trong thời gian chưa sửa đổi thì thực hiện theo nội dung tương ứng của thỏa ước lao động tập thể.

–  Khi một bên cho rằng bên kia thực hiện không đầy đủ hoặc vi phạm thỏa ước lao động tập thể thì có quyền yêu cầu thi hành đúng thỏa ước lao động tập thể và các bên có trách nhiệm cùng xem xét giải quyết; nếu không giải quyết được, mỗi bên đều có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động tập thể theo quy định của pháp luật.

Thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) không chỉ góp phần đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của người lao động (NLĐ) mà còn xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phát triển bền vững. Vì vậy, nâng cao hiệu quả thương lượng, ký kết, thực hiện TƯLĐTT là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tổ chức công đoàn. 

Tuy nhiên, ở một số DN, tình trạng vi phạm chế độ chính sách đối với NLĐ vẫn còn diễn ra; một bộ phận CNLĐ thiếu hiểu biết về pháp luật lao động, chưa quan tâm đến quyền và lợi ích theo pháp luật quy định, chỉ đến khi lợi ích bị xâm phạm mới nảy sinh bất hòa trong quan hệ lao động.

Xác định việc thương lượng, ký kết, thực hiện tốt thỏa ước lao động tập thể  tại các doanh nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng góp phần chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho đoàn viên, người lao động. Để khắc phục những nhược điểm này trong thỏa ướ lao động tập tể cần  tập trung tư vấn, hỗ trợ công đoàn cơ sở (CĐCS) thương lượng, xây dựng, sửa đổi, bổ sung, tổ chức ký kết thỏa ước lao động tập thể ; tổ chức tập huấn cho cán bộ công đoàn cấp trên cơ sở và công đoàn cơ sở về thỏa ước lao động tập thể ; huấn luyện kỹ năng thương lượng tập thể cho người tham gia thương lượng; cử cán bộ công đoàn cấp trên đến dự họp thương lượng tập thể với cơ sở… Hằng năm, tổ chức ký kết giao ước thi đua với các đơn vị công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở, trong đó chỉ tiêu về thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể là chỉ tiêu quan trọng và kết quả thực hiện thỏa ước lao động tập thể là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng, xét thi đua khen thưởng hằng năm đối với công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở và công đoàn cơ sở. 

Nội dung chỉ tập trung vào chế độ phúc lợi như trợ cấp khó khăn, hiếu hỷ, tang gia, lễ tết; số thỏa ước lao động tập thể  có điều khoản có lợi về nội dung tiền lương, phụ cấp còn ít. Một số cán bộ công đoàn chưa nghiên cứu sâu về pháp luật lao động và rèn luyện kỹ năng thương lượng, tổ chức ký kết và giám sát thực hiện thỏa ước lao động tập thể.

Nguyên nhân của hạn chế nêu trên là do quy định của pháp luật về việc thương lượng, xây dựng và ký kết thỏa ước lao động tập thể chưa là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp, do đó hoạt động thương lượng, thỏa thuận giữa tổ chức công đoàn với chủ doanh nghiệp nhằm tăng thêm quyền lợi cho người lao động còn gặp nhiều khó khăn. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nhất là các quy định của pháp luật về Thỏa ước lao động tập thể đến với doanh nghiệp còn hạn chế, người sử dụng lao động và người lao động chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết trong ký kết và thực hiện thỏa ước lao động tập thể ; kỹ năng tuyên truyền, vận động, năng lực đàm phán, thương lượng của cán bộ công đoàn còn hạn chế

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về vấn đề mà bạn đang quan tâm. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do khách hàng cung cấp. Mục đích đưa ra bản tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo. Trường hợp trong bản tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bản tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ email Tư vấn pháp luật qua Email hoặc tổng đài tư vấn trực tuyến 1900.0191. Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng./