I. CÁN CÂN THANH TOÁN

1. Khái niệm: 

Cán cân thanh toán (Balance of Payment – BOP) của một nước được coi là báo cáo giao dịch quốc tế của nước đó, là báo cáo về cán cân thương mại và giao dịch tài chính mà các cá nhân, các doanh nghiệp và cơ quan chính phủ ở một nước thực hiện với các nước khác trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).

2. Phân loại: 

Cán cân thanh toán có 2 hạng mục tài khoản chính

– Cán cân thương mại, ghi chép mọi hoạt động thương mại hàng hoá
– Cán cân vốn ghi lại tất cả những khoản cho người nước ngoài và dân chúng vay.
Trong vài năm đầu thế kỉ 21, người ta thường chú ý đến cán cân thương mại. Hiểu một cách máy móc, lượng xuất khẩu đem lại doanh thu dương trong khi nhập khẩu sinh ra doanh thu âm đối với quốc nội. Doanh thu ròng dương chỉ đơn giản là kết quả của việc xuất nhiều hơn nhập, dẫn đến thặng dư cán cân thương mại; cũng như thế, nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại.
Khái niệm cán cân có nghĩa là tất cả các giao dịch trong cán cân thanh toán BOP đều cần có sự bù đắp. Ví dụ, một nước có thể thặng dư trong thương mại hàng hoá (cho thấy nước đó xuất nhiều hơn nhập) nhưng có thể thâm hụt trong lĩnh vực khác ví dụ như thu nhập từ đầu tư. Nói cách khác, bởi vì cán cân thương mại và cán cân vốn cộng lại thành tổng tài khoản cần cân bằng nên thâm hụt trong cán cân thương mại thường kéo theo thặng dư tương đương trong cán cân vốn và ngược lại. Thặng dư hay thâm hụt cán cân thương mại đều không thể được giải thích và đánh giá mà không có giải thích và ước lượng về lượng thâm hụt hay thặng dư tương ứng trong cán cân vốn.

3. Ảnh hưởng của cán cân thanh toán đến sự ôn định kinh tế

Các nhà quản lý sử dụng cán cân thanh toán để đánh giá sự ổn định của một nền kinh tế. Bằng cách so sánh các giao dịch của một quốc gia với các nước khác, cán cân thanh toán ước tính sự ổn định về tài chính của nước đó trên thị trường thế giới. Chẳng hạn, thâm hụt trong thương mại hàng hoá nghĩa là nguồn cung tiền của nước đó đang tăng trên thị trường thế giới, người tiêu dùng của nước đó mua nhiều hàng nhập khẩu khiến cho cán cân thâm hụt. Nếu chính phủ  không xem xét lại các chính sách kinh tế để điều chỉnh thị trường, đồng tiền của nước đó sẽ sớm bị mất giá.

4. Ảnh hưởng của cán cân thanh toán đến chiến lược công ty

Nghiên cứu các xu hướng của cán cân thanh toán sẽ giúp các nhà quản lý có thêm thông tin khi quyết định có nên kinh doanh ở một nước nào đó hay không. Sự thay đổi của cán cân thanh toán sẽ tác động đến chiến lược của một công ty và các hoạt động kinh tế và chính sách của chính phủ. Ví dụ, một số người cho rằng giải pháp cho thâm hụt ngân sách của Hoa Kỳ là phát triển mạnh hơn ở nước ngoài, giảm giá trị của đồng USD, giảm chi tiêu tiêu dùng và tăng tỷ lệ tiết kiệm. Bất cứ nhân tố nào trên đây cũng sẽ làm thay đổi những thành tố quan trọng của môi trường kinh tế Hoa Kỳ, đồng thời gây ra những biến đổi trong chính sách kinh tế ở khắp các quốc gia trên thế giới.

II. CÁC HÌNH THỨC HỆ THỐNG KINH TÉ

Hệ thống kinh tế là một cơ chế liên quan đến sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Nó bao gồm các cấu trúc và các quá trình hướng dẫn phân bố các nguồn lực và hình thành nguyên tắc hoạt động kinh doanh trong một đất nước. Hệ thống chính trị và hệ thống kinh tế có liên quan chặt chẽ đến nhau. Hiện nay có hai hình thức hệ thống kinh tế phổ biến là hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa và hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa. Sự khác biệt chủ yếu giữa hai hệ thống này được thể hiện rõ trong các yếu tố như quyền sở hữu và chi phối các nhân tố sản xuất cũng như quyền tự do định giá để cân bằng cung cầu.

1. Chủ nghĩa tư bản

là một hệ thống thị trường tự do được xây dựng trên cơ sở tư nhân nắm quyền sở hữu và kiểm soát nguồn lực. Theo đó, những người sở hữu vốn có toàn quyền hưởng lợi nhuận từ công sức và sự đầu tư đã bỏ ra cũng như những mạo hiểm mà họ chấp nhận đối mặt. Trái ngược lại, chủ nghĩa xã hội lại đề cao hệ thông kế hoạch tập trung xây dựng trên cơ sở sở hữu công tất cả các nhân tố sản xuất và điều khiển tất cả các hoạt động kinh tế.

Có nhiều ví dụ để diễn đạt khái niệm kinh tế chủ nghĩa tư bản hoặc chủ nghĩa cộng sản. Thay vào đó, nhà quản lý sử dụng những nguyên tắc của cả hai tư tưởng này để phân chia những hệ thống kinh tế hiện hành thành: nền kinh tế thị trường, kinh tế tập trung và kinh tế hỗn hợp nhằm định nghĩa môi trường kinh doanh trên thế giới.

2.Kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường là một hệ thống trong đó các cá nhân chứ không phải là chính phủ sẽ quyết định các vấn đề kinh tế. Mọi người có quyền tự do lựa chọn làm việc gì, ở đâu, tiêu dùng hay tiết kiệm như thế nào và nên tiêu dùng bây giờ hay sau này. Như vậy, trong một nền kinh tế thị trường, khu vực kinh tế tư nhân được tự do phát triển. Quan điểm này dựa trên nguyên tắc cho phép tư nhân tự do kinh doanh và nên để thị trường tự quyết định. Thóat khỏi các quy định của nhà nước, một thị trường tự do sẽ quyết định một cách hiệu quả mối quan hệ giữa giá, số lượng, cung và cầu. Nguyên tắc này do nhà kinh tế chính trị người Scotland là Adam Smith khởi xướng với học thuyết “Bàn tay vô hình”, theo đó nền kinh tế thị trường được tác động bởi mục tiêu lợi nhuận, các nhà sản xuất sẽ sản xuất hiệu quả những sản phẩm mà người tiêu dùng có nhu cầu. Đến lượt mình, người tiêu dùng sẽ đảm bảo rằng vốn và sức lao động nhà sản xuất bỏ ra là xứng đáng, bằng cách quyết định mua hay không mua sản phẩm. Như vậy, kinh tế thị trường khuyến khích việc phát triển trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa người sản xuất và người tiêu dùng.

– Sở hữu tư nhân các nguồn lực: Bởi vì các cá nhân đưa ra các quyết định cho nên nền kinh tế thị trường sẽ phụ thuộc vào các cá nhận và doanh nghiệp sở hữu và chi phối các nguồn lực hơn là chính phủ. Chỉ có quyền sở hữu tư mới giúp cho hệ thống kinh tế kiểu này phân bố được các nhân tố sản xuất, hay như Adam Smith gọi là bàn tay vô hình đã hướng dẫn các các cá nhân hưởng quyền lợi hành động một cách hiệu quả. Do đó, “sự thống trị của người tiêu dùng”, hay nói theo cách khác là ảnh hưởng của người tiêu dùng lên phân bố các nguồn lực thông qua nhu cầu với sản phẩm, chính là cơ sở nền tảngcủa nèn kinh tế thị trường.
– Vai trò của chính phủ: Một nền kinh tế thị trường phụ thuộc rất it vào những quy định của chính phủ. Nhà nước càng can thiệp nhiều thì thị trường càng hoạt động kém hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, “bàn tay vô hình” cũng không phải là không có hạn chế, ví dụ như nhu cầu các sản phẩm công (như đèn giao thông hay quốc phòng hoặc các quy định về bảo vệ môi trường) thường không hấp dẫn với các nhà đầu tư nhưng lại vô cùng quan trọng với một quốc gia. Do đó, một thị trường tự do vẫn cần đến hoạt động của nhà nước để đảm bảo hiệu lực cho hợp đồng, bảo vệ quyền sở hữu, đảm bảo cạnh tranh công bằng và tự do, quản lý một vài hoạt động kinh tế nhất định và đảm bảo an ninh, trật tự xã hội.
Hongkong, Anh Quốc, Canada, và Hoa Kỳ là các nước có nền kinh tế thị trường tiêu biểu. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách chặt chẽ, không một quốc gia nào trong số này là có nền tự do hóa nền kinh tếhoàn toàn, bởi vì chính phủ các nước này có can thiệp không ít đến thị trường.
Tuy nhiên, đây vẫn là những nền kinh tế “gần nhất” với khái niêm kinh tế thị trường.

3. Kinh tế tập trung

Một nền kinh tế tập trung là hệ thống kinh tế trong đó nhà nước sở hữu và chi phối mọi nguồn lực. Có nghĩa là, nhà nước có quyền quyết định hàng hóa và dịch vụ nào được sản xuất, với số lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào và giá cả ra sao. Ví dụ, trong một nền kinh tế thị trường, nếu chính phủ muốn có nhiều ô tô hơn, chính phủ đó phải thu thuế và mua xe từ thị trường. Còn trong nền kinh tế tập trung, bàn tay vô hình của chính phủ sẽ yêu cầu các nhà sản xuất ô tô do nhà nước sở hữu và điều khiển phỉa sản xuất nhiều xe hơn mà không cần quan tâm đến giá cả.

Những nền kinh tế tập trung có nhiều nhược điểm. Việc Nhà nước sở hữu các phương tiện sản xuất – đất đai, nông trại, nhà xưởng, ngân hàng, cửa hàng, bệnh viện …, các phương tiện này lại được quản lý bới các nhân viên làm việc cho chính phủ. Kết quả là, giá cả của dịch vụ và hàng hóa không có nhiều biến động trong một nền kinh tế tập trung, bởi vi chính là các quan chức chính phủ chứ không phải người tiêu dùng quyết định điều này. Tuy nhiên, chất lượng thì lại có xu hướng thay đổi rất nhanh, thường là tệ đi theo thời gian do ít nhất là một trong 3 nguyên nhân sau:
– Hầu hết các sản phẩm được cung cấp số lượng ít.
– Người tiêu dùng về cơ bản là không có hoặc có ít lựa chọn thay thế.
– Không có nhiều động lực để nhà sản xuất cải tiến, đầu tư hay nâng cấp.
Nền kinh tế tập trung có thể hoạt động tốt trong ngắn hạn, đặc biệt là trong quá trình tăng trưởng bởi nhà nước có khả năng di chuyển những nguồn lực chưa được khai thác hay khai thác chưa hiệu quả để tạo ra tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng ấn tượng có thể đạt được cho đến khi những nguồn lực chưa được sử dụng được đem vào hoạt động hiệu quả (chủ yếu là nguồn lao động). Tương tự như vậy, các nước kinh tế tập trung có xu hướng phát triển những ngành sản xuất đòi hỏi quy mô và vốn lớn đểcó được lợi nhuận cao nhưng lại chỉ sản xuất các sản phẩm không có lợi thế cạnh tranh với nước ngoài với chất lượng chỉ ở mức chấp nhận được.

4. Kinh tế hỗn hợp

Trong thực tế, không có một mô hình kinh tế nào là hoàn toàn tự do hay tập trung. Thay vào đó, hầu hết các nền kinh tế có thể đươc coi là kinh tế hỗn hợp, có nghĩa là rơi vào khoảng giữa của thang phân cực kinh tế tư bản – kinh tế xã hội chủ nghĩa. Một nền kinh tế hỗn hợp là kinh tế mà hầu hết do thị trường quyết định, và hình thức sở hữu tư nhân là phổ biến hơn, nhưng vẫn có can thiệp của nhà nước vào các quyết định cá nhân.

Như vậy, hình thức kinh tế hỗn hợp có những yếu tố của cả kinh tế thị trường và kinh tế tập trung – nhà nước sở hữu các nhân tố kinh tế quan trọng trong khi người tiêu dùng và các công ty tư nhân có thể ảnh hưởng đến giá cả, chất lượng hàng hóa. Ví dụ, chính phủ có thể sở hữu các công ty sản xuất ô tô. Nhưng thay vì yêu cầu các nhà quản lý phải bán mỗi chiếc xe với giá bao nhiêu, chính phủ để cung cầu thị trường quyết định giá bán của xe. Các nước được xếp vào hang các nền kinh tế hỗn hợp tiêu biểu gồm có Nam Phi, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Braxin, Đức và Ấn Độ.
Có một câu hỏi được đặt ra : Tại sao một quốc gia không chọn giữa kiểu hình kinh tế thị trường hoàn toàn hoặc tập trung hoàn toàn để tối ưu hóa hoạt động kinh tế của nước đó? Câu trả lời là, mặc dù kinh tế thị trường đạt được hiệu quả đạt được hiệu quả cao nhưng hệ thống kinh tế quốc gia cũng cần kiểm soát sự hám lợi của các nhà kinhn doanh, đưa ra những chính sách cần thiết để giảm thất nghiệp, giảm nghèo, ổn định tăng trưởng và phân phối thu nhập đồng đều. Vì vậy, hầu hết các quốc gia đều cố gắng hoà hợp các yếu tố của cả hai hình thức kinh tế này.

III. TỰ DO KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH THỊ TRƯỜNG

Hai thập kỉ vừa qua đã chứng kiến sự áp dụng rộng rãi các nguyên tắc của thị trường tự do. Các quốc gia đã cải cách môi trường kinh tế bằng cách tuân theo quy luật cung cầu thay vì bàn tay vô hình của chính phủ để hình thành giá và sản lượng. Các quốc gia có nền kinh tế càng tự do càng vượt xa các nước khác trên nhiều phương diện. Năm 2006, các nước có nền tự do hóa nền kinh tếcó GNI bình quân đầu người là $29.219, gấp hơn 2 lần các nước tự do một phần và hơn 4 lần các nước gần như không có thị trường tự do.

Kết quả tương tự cũng tồn tại đối với mức thu nhập, tốc độ tăng trưởng, ổn định giá, và công ăn việc làm. Hơn nữa, các báo cáo cho thấy có sự tương quan tỉ lệ thuận giữa mức độ tự do của nền kinh tế và mức tăng thu nhập cá nhân, thu nhập cho người nghèo, tuổi thọ trung bình cao hơn, tỉ lệ biết chữ lớn hơn, tỉ lệ tử vong trẻ em thấp hơn và ít tham nhũng hơn. Tóm lại, những điều này củng cố xu hướng lâu dài rằng các quốc gia ít phụ thuộc vào thuế cao, luật lệ và sự kiểm soát của chính phủ đạt được tăng trưởng kinh tế và mức sống cao nhất.

Chỉ số Tự do Kinh tế

Kể từ năm 1995, Quỹ Di sản (Heritage Foundation) và Nhật báo phố Wall của Hoa Kỳ đã công bố thông báo hàng năm về Chỉ số Tự do Kinh tế. Nói một cách chính thức, tự do kinh tế được định nghĩa là “sự loại bỏ những ép buộc hoặc giới hạn từ chính phủ về sản xuất, phân phối hay tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ vượt mức cần thiết đối với công dân để bảo vệ, duy trì quyền tự do. Nói cách khác, mọi người được tự do làm việc, sản xuất, tiêu dùng và đầu tư theo cách họ cho là hiệu quả nhất”.

Chỉ số này đánh giá mức độ can thiệp của chính phủ vào nguyên tắc tự do chọn lựa và giải phóng doanh nghiệp vì những lý do trên cả mức cần thiết để bảo vệ tài sản, tự do, an toàn của công dân và hiệu quả thị trường. Trên thực tế, cuộc điều tra này xếp loại các quốc gia dựa trên 50 chỉ số độc lập được thiết kế theo 10 vấn đề như: Tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự do tài chính, tự do đầu tư, tự do thóat khỏi tham nhũng… Chỉ số của một yếu tố càng cao trong khoảng từ 0% đến 100%, mức độ can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế càng thấp.
Năm 2006, Chỉ số Tự do Kinh tế trung bình là 60.6%, mức cao thứ 2 kể từ khi chỉ số này được đưa ra năm 1995 nhưng chỉ giảm 0.3% so với năm trước đó. Trong giai đoạn 2005-2006, trong số 155 quốc gia điều tra, 65 quốc gia có Chỉ số Tự do Kinh tế tăng nhưng chỉ số của 92 quốc gia khác đã giảm. Ngược lại, giai đoạn 2004-2005, 86 nước tự do hóa kinh tế nhiều hơn, so với 57 nước áp đặt nhiều kiểm soát từ chính phủ hơn.

III. CHUYỂN ĐỔI SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Mặc dù những cuộc điều tra về tự do kinh tế cho thấy quá trình vận dụng các nguyên tắc tự do hóa thị trường có thể gặp một số trở ngại, về lâu dài xu hướng tích cực vẫn chiếm ưu thế. Từ năm 1985 đến năm 2006, 89% các nước được điều tra có Chỉ số Tự do Kinh tế tăng lên, 6% có chỉ số giảm và 5% không thay đổi. Chỉ số Tự do Kinh tế trung bình cũng tăng từ 5.17 vào năm 1985 lên 6.4 vào những năm gần đây. Tuy nhiên, cần lưu ý là danh sách điều tra ban đầu chỉ là 105 quốc gia, trong khi danh sách điều tra hiện tại là 157 quốc gia, trong đó nhiều quốc gia từng áp dụng nền kinh tế chỉ huy. Nhu vậy tuy các chỉ số có vẻ hứa hẹn nhưng những dữ liệu này chưa đủ để tin tưởng về sức mạnh của xu hướng tự do hóa kinh tế trong tương lai.

Tự do kinh tế với tăng trưởng kinh tế

Chỉ số Tự do Kinh tế có thể phản ánh trung thực căn nguyên và nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Trong những thập niên gần đây các quốc gia chủ trương tự do hóa nền kinh tế là các quốc gia có tỉ lệ tăng trưởng dài hạn cao nhất và đạt mức thịnh vượng hơn các nước ít tự do kinh tế. Những nước đứng thứ hạng cao nhất về tự do hóa kinh tế như Singapore hay Hoa Kỳ thường có tốc độ phát triển cũng như chất lượng cuộc sống cao nhất.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi.  Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật  – Công ty luật LVN Group