Khách hàng: Kính thưa Luật sư, liên quan đến hoạt động thương mại, cụ thể là về biện pháp tự vệ thương mại được quy định như thế nào? Đánh giá chung về năng lực áp dụng biện pháp tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam?
Cảm ơn!
Trả lời:
1. Hoạt động thương mại là gì?
“Thương mại quốc tế” là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Đó là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất qua biên giới giữa các quốc gia, hoặc/và là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất giữa các tổ chức cá nhân trong nước với đối tác nước ngoài. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) xem xét thương mại quốc tế trên 4 lĩnh vực chủ yếu là thương mại hảng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến đầu tư và thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, phạm vi nghiên cứu và thực tiễn các chính sách quản lý đối với thương mại quốc tế đã được mở rộng ra nhiều lĩnh vực và chủ thể hơn, như liên quan đến mối quan hệ giữa con người với con người như lao động việc làm, quyền con người…, và mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên như môi trường, …
Xét trên phương diện là một quá trình kinh tế, thương mại quốc tế là một quá trình có phạm vi và qui mô quốc tế, bắt đầu từ khâu nghiên cứu xác định thị trường cho đến sản xuất, lưu thông đến người tiêu dùng cuối cùng và theo một chu trình lặp đi lặp lại với qui mô, tốc độ lớn hơn. Trên phương diện là một ngành kinh tế, thương mại quốc tế là một lĩnh vực phân phối được chuyên môn hoá, có tổ chức, có phân công và hợp tác giữa các đối tác của hai hay nhiều quốc gia với nhau với khách thể tác động là hàng hoá, dịch vụ…
Thương mại quốc tể bao gồm quan hệ kinh tế diễn ra giữa các chủ thể của các nước khác nhau, các chủ thể có quốc tịch khác nhau. Vì vậy, thương mại quốc tế liên quan đến rất nhiều các vấn đề khác nhau giữa các quốc gia, giữa các danh nghiệp mỗi quốc gia và thậm chí giữa doanh nghiệp với quốc gia.
Thương mại quốc tế đóng một vai trò rất quan trọng đối với các quốc gia. Nó cho phép các quốc gia tiêu dùng các mặt hàng với số lượng nhiều hơn và chủng loại phong phú hơn mức ranh giới của đường giới hạn khả năng sản xuất trong điều kiện đóng cửa nền kinh tế của mỗi nước. Bên cạnh đó, thương mại quốc tế có sự tác động qua lại, buộc mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế phù hợp với ngành nghề, vùng miền và thành phần kinh tế với đặc thù và lợi thế cạnh tranh của mỗi quốc gia.
Thương mại quốc tế ngày nay không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là mua bán giữa các quốc gia mà thể hiện sự phụ thuộc tất yếu của các quốc gia vào phân công lao động quốc tế thông qua chuỗi cung ứng quốc tế. Vì vậy, thương mại quốc tế được nhìn nhận như một nhân to quan trọng để phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trên cơ sở lựa chọn tối ưu phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế.
2. Đặc điểm hoạt động thương mại
a. Chủ thể thực hiện hoạt động thương mại
Hoạt động thương mại là quan hệ giữa các thương nhân hoặc ít nhất một bên là thương nhân, người thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại có tính chất nghề nghiệp
Bên còn lại trong hoạt động thương mại có thể được xác định là thương nhân, nhưng cũng có thể được xác định không phải là thương nhân như cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh được điều chỉnh pháp luật.
b. Mục đích của người thực hiện hoạt động thương mại
Mục đích chính của người thực hiện hoạt động thương mại là lợi nhuận, sinh lời.
c. Nội dung của hoạt động thương mại
Nội dung hoạt động thương mại gồm hai nhóm hoạt động cơ bản là mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ (thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ). Ngoài ra, các hình thức đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận cũng là những hoạt động thương mại.
d. Hàng hóa, dịch vụ các chủ thể được phép kinh doanh
Chủ thể thực hiện hoạt động thương mại được phép thực hiện kinh doanh tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ được phép kinh doanh theo quy định của pháp luật, trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề theo quy định của pháp luật.
e. Phạm vi thực hiện hoạt động thương mại
Phạm vi thực hiện hoạt động thương mại không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn được thực hiện ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam, trong phạm vi khu vực và thế giới, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, mở cửa nền kinh tế. Thông qua đó khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.
3. Biện pháp tự vệ thương mại
Thuật ngữ “tự vệ” theo WTO được hiểu là hành động khẩn cấp của nước nhập khẩu trước việc gia tăng nhập khẩu của một loại hàng hoá cụ thể, khi mà sự gia tăng nhập khẩu này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa đó trong nước.
Tuy nhiên, đây chỉ là quan niệm, cách hiểu cơ bản và vận dụng về biện pháp tự vệ, không phải là định nghĩa phản ánh đầy đủ bản chất của hành động tự vệ. Vì vậy, trong các tài liệu nghiên cứu về tự vệ của WTO có đưa ra thêm một số giải thích bổ sung.
Theo tài liệu giải thích về Điều XIX Hiệp định GATT 1994, ở mục 797 khi nhắc đến phán quyết của Uỷ ban phúc thẩm trong vụ kiện Argentina – Footwear nêu rõ biện pháp tự vệ theo qui định tại Điều XIX có đặc trưng là tính khẩn cấp, được áp dụng chỉ duy nhất trong trường hợp mà do kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định GATT 1994, một thành viên nhận thấy quốc gia mình rơi vào những hoàn cảnh mà “không lường trước được” hoặc “ngoài dự đoán” khi đặt ra/đàm phán và ký kết cam kết liên quan.
Theo Yong Shik Lee, Safeguard Measures in world trade, The Legal Analysis, Third Edition (2014) (Các biện pháp tự vệ trong thương mại thế giới: Phân tích pháp lý. Tái bản lần 3 (2014)) xác định, thuật ngữ “biện pháp tự vệ” được sử dụng để đề cập đến hạn chế nhập khẩu, được áp dụng như là một biện pháp tạm thời khi có sự gia tăng nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp.
Theo Yong Shik Lee, tự vệ còn có thể hiểu rộng hơn, gồm những trường hợp các bên “dị ngược lại” với những cam kết của mình và hạn chế nhập khẩu, không tính đến việc có hay không hành vi thương mại không lành mạnh: Điều XIX, XII, XVIII Hiệp định GATT 1994, Hiệp định Tự vệ (Hiệp định SG), Hiệp định nông nghiệp (AOA), Điều XII Hiệp định GATS. Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc, cho phép tự vệ cụ thể và đặc biệt là đến các sản phẩm trong thời gian chuyển đổi, chỉ áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu từ nước này. Biện pháp tự vệ nói chung (Điều XIX của GATT) được áp dụng cho mọi loại hàng hoá, trong khi những biện pháp tự vệ khác chỉ áp dụng giới hạn cho một số hàng hoá (sản phẩm nông nghiệp, dệt may), hoặc có thể không hướng đến việc bảo vệ hay ngăn ngừa thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước (đối với trường hợp sử dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ cán cân thanh toán).
Mặc dù có nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau, nhưng để có thể hiểu và sử dụng khái niệm này trong thực tế, và phù hợp với quan niệm cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, trong phạm vi của cuốn sách này, biện pháp tự vệ được sử dụng sẽ là: “Biện pháp tự vệ là một trong ba bộ phận cẩu thành của biện pháp phòng vệ thương mại. Biện pháp tự vệ là công cụ bảo vệ, hỗ trợ ngành sản xuất hàng hoả tương tự, hoặc cạnh tranh trực tiếp của nước nhập khẩu trong trường hợp khẩn cẩp nhằm hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng do tình trạng gia tăng của hàng hoá nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra”.
4. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
Thứ nhất, trong các vụ việc điều tra áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, cơ quan điều tra và các cán bộ, công chức thực thi đã và đang thực hiện đầy đủ qui định pháp luật, qui định của WTO và các cam kết trong các FTA.
Nguyên nhân chính là Việt Nam đã có sự chuẩn bị sẵn sàng về cả tổ chức, con người cũng như hệ thống pháp luật điều chỉnh về tự vệ thương mại.
Thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu nhận thức được tầm quan trọng của công cụ tự vệ thương mại trong việc bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp và sản xuất trong nước trước sự gia tăng đạt của hàng hoá nhập khẩu. Có thể thấy những tín hiệu lạc quan về khả năng sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại ở Việt Nam đối với hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài. Đối với một nền kinh tế có độ mở lớn trong bối cảnh tự do hoá thương mại, việc phát hiện, nhận thức và biết tận dụng các công cụ phòng vệ thương mại được phép trong thương mại quốc tế sẽ là một ưu thế giúp doanh nghiệp có thời gian đổi mới, thay đổi, nâng cao năng lực cạnh tranh…
Thứ ba, trong xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, việc thâm nhập ồ ạt và gia tăng đột biến nhiều loại hàng hoá vào thị trường trong nước là không thể tránh khỏi. Khả năng phát sinh nhiều vụ việc yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại tạo cho các cán bộ thực thi có cơ hội cọ xát, tích luỹ kinh nghiệm và nâng cao mức độ thành thạo trong xử lý các vụ việc, vận dụng kinh nghiệm, kỹ năng gắn với mỗi tình huống, mỗi vụ việc về tự vệ thương mại.
Thứ tư, mặc dù số vụ việc áp dụng biện pháp tự vệ thương mại ở Việt Nam còn khá khiêm tốn so với số vụ kiện về tự vệ thương mại của nước ngoài đối với hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam có liên quan. Nhưng với 06 vụ việc đã được kiện thành công đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam cho thấy năng lực áp dụng biện pháp tự vệ thương mại đối với nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam ở tất cả các chử thể, cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp và các cá nhân tham gia vào những vụ việc này.
Kết quả này cho thấy nhận thức và sự quan tâm của không chỉ ở các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách và tạo lập thể chế môi trường kinh doanh, đến các đơn vị hoạt động thực tiễn đối với việc sử dụng công cụ tự vệ thương mại trong thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, qua thực tiễn triển khai áp dụng tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hoá ở Việt Nam sẽ tạo ra tiền lệ, sự khích lệ và kinh nghiệm đối với các chủ thể, đặc biệt là các doanh nghiệp về nhận thức và thực thi các công cụ bảo vệ quyền lợi và lợi ích của mình.
5. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Thứ nhất, các doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng còn chưa thực sự chủ động trong việc sử dụng công cụ tự vệ thương mại để bảo vệ lợi ích của chính doanh nghiệp mình; Chưa phát hiện và ứng phó kịp thời khi các dấu hiệu dẫn đến cần phải áp dụng tự vệ thương mại xuất hiện; Còn lúng túng, thiếu kỹ năng trong việc chuẩn bị số liệu, thông tin để tiến hành các vụ việc phòng vệ thương mại nói chung và tự vệ thương mại nói riêng.
Thứ hai, việc thu thập số liệu, tìm hiểu về thực trạng hoạt động của ngành sản xuất trong nước gặp nhiều khó khăn do hạn chế về thông tin và sự phối hợp của nhiều bên liên quan trong vụ việc.
Việc cập nhật dữ liệu về ngành sản xuất sản phẩm thượng nguồn và hạ nguồn trong điều tra vụ việc tự vệ thương mại gặp nhiều khó khăn trong thu thập, tiếp cận thông tin
Thứ ba, thiếu bề dày kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ thực thi áp dụng tự vệ thương mại, khi số các vụ việc về tự vệ thương mại cần xử lý giải quyết mới chưa đạt hai con số (mặc dù Việt Nam là quốc gia nhập khẩu và nhập siêu trong suốt thời gian dài – đến hom 20 năm), trong khi mức độ phức tạp của vấn đề chỉ xoay quanh các qui định về tự vệ toàn cầu theo Hiệp định SG trong khuôn khổ WTO.
Trường hợp nếu có các vấn đề về tự vệ thương mại trong bối cảnh mới hiện nay đã có sự thay đổi đáng kể, cụ thể hơn, linh hoạt hơn, phức tạp và tinh vi hơn, do đó cũng đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải hiểu biết sâu về tự vệ thương mại, đặc biệt là tự vệ thương mại trong các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia.
Thứ tư, sự phối hợp giữa Bộ Công Thương với các cơ quan quản lý chuyên ngành trong quá trình tiến hành điều tra, áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại chưa thật sự chặt chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ. Thông tin và trao đổi giữa các Bộ, ngành cũng như giữa các cơ quan nhà nước với các doanh nghiệp về tự vệ thương mại còn chưa đầy đủ và thường xuyên.
Chưa có cơ chế phối hợp liên ngành (được quy định) cụ thể giữa Bộ Công Thương với các Bộ quản lý chuyên ngành có liên quan trong giải quyết các vụ việc phòng vệ thương mại nói chung và tự vệ thương mại nói riêng.
=> Kết luận: Trong bối cảnh Việt Nam phải thực hiện các yêu cầu ngày càng chặt chẽ, cao và phức tạp của quốc tế về giảm thiểu quản lý nhập khẩu bằng các biện pháp thuế quan, hành chính, việc tăng cường năng lực áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế là hết sức cần thiết, nhằm vận dụng và phát huy hiệu quả của công cụ bảo hộ hợp pháp này.
Tuy nhiên, một trong những vấn đề gây nhiều lúng túng trong thời gian qua là chọn ngành nào để bảo hộ và bảo hộ thế nào cho hợp lý, tránh không để bị trả đũa bằng các biện pháp của phía xuất khẩu cũng như tránh để doanh nghiệp ỷ lại lợi dụng sự bảo hộ của Nhà nước, chỉ bảo hộ trong những trường hợp thật cần thiết để không tạo nên tâm lý bảo hộ tràn lan. Do đó, năng lực áp dụng các biện pháp tự vệ cần phải đạt được các yêu cầu trên, đồng thời áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại dựa trên tín hiệu thị trường và đúng đối tượng. Mức độ bảo hộ cần được tính toán kỹ càng dựa trên các so liệu kinh tế sát với thực tiễn. Thời gian bảo hộ cũng cần được xác định trước, vì vậy, các doanh nghiệp được bảo hộ không thể dựa nhiều vào Nhà nước mà phải tự vận động, điều chỉnh và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình ngang tầm khu vực.
Trân trọng!