I. Sự cần thiết ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Tổng kết trên 10 năm thực hiện Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2003 cho thấy Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Luật NHNNVN) đã góp phần quan trọng trong việc hình thành cơ sở pháp lý để đổi mới tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi tắt là Ngân hàng Nhà nước), đặc biệt trong việc thực hiện các chức năng cơ bản của mình là xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, thanh tra, giám sát có hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng. Cụ thể như sau:

1. Luật NHNNVN đã góp phần từng bước hoàn thiện thể chế về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước theo cơ chế thị trường đã tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành đồng bộ một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mới trong tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước về tiền tệ, ngoại hối, thanh toán, ngân quỹ, thanh tra giám sát an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng … tạo điều kiện để Ngân hàng Nhà nước thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của mình.

>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.0191

2. Nâng cao hiệu quả quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Trên cơ sở Luật NHNNVN, Ngân hàng Nhà nước đã từng bước đổi mới việc điều hành chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, sử dụng hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ như lãi suất, tái cấp vốn, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc để điều tiết thị trường và hoạt động của các TCTD, thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia; Luật NHNNVN cũng tạo ra hành lang pháp lý để Ngân hàng Nhà nước đổi mới chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai, loại bỏ dần các hạn chế đối với các hoạt động thanh toán, chuyển tiền quốc tế….thay đổi căn bản cơ chế điều hành tỷ giá từ cơ chế tỷ giá cố định sang cơ chế tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước đã góp phần đẩy mạnh xuất khẩu và thúc đẩy phát triển, ổn định thị trường ngoại hối của Việt Nam.

3. Đổi mới hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Các quy định trong Luật NHNNVN về cơ bản là phù hợp với yêu cầu của công tác thanh tra, giám sát an toàn trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng và trình độ phát triển của Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở các quy định của Luật, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng các quy định về an toàn đối với hoạt động ngân hàng tương đối phù hợp với chuẩn mực quốc tế áp dụng đối với các nước đang phát triển có cùng trình độ (Basel 1). Trong khuôn khổ của hệ thống các cơ chế an toàn này, mức độ rủi ro của từng tổ chức tín dụng cũng như của cả hệ thống đã được theo dõi tốt hơn, kịp thời hơn đã góp phần quan trọng trong việc đổi mới hoạt động quản trị, điều hành, kiểm soát trong từng tổ chức tín dụng và nâng cao hơn chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng.

Đồng thời, các cơ chế can thiệp, xử lý tổ chức tín dụng yếu kém quy định trong Luật NHNNVN đã góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng, ngay cả trong những giai đoạn khó khăn.

4. Luật NHNNVN đã góp phần đổi mới các hoạt động cơ bản đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu về dịch vụ ngày một cao của các tổ chức tín dụng, như chế độ quản lý tiền mặt, phát hành, thanh toán thẻ, thanh toán điện tử liên ngân hàng, thông tin tín dụng (cập nhật, cung cấp thông tin về quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp với khách hàng, công tác thông tin dự báo, định hướng chính sách lãi suất, tỷ giá … ).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, sau 10 năm thực hiện Luật đã bộc lộ không ít hạn chế, bất cập. Một số quy định của Luật chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đối với việc xây dựng Ngân hàng nhà nước phù hợp với điều kiện mới, phù hợp với các yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập quốc tế, cụ thể:

Thứ nhất, Luật NHNNVN chưa nâng cao trách nhiệm cũng như thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành các công cụ để thực thi chính sách tiền tệ.

Thứ hai, Luật NHNNVN chưa quy định trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước về việc công khai chủ trương, chính sách và những thông tin cần thiết về tiền tệ và ngân hàng, tạo lòng tin của công chúng vào chính sách của Nhà nước trong bối cảnh thông tin có rất nhiều chiều và từ rất nhiều nguồn của nền kinh tế thị trường.

Thứ ba, Luật NHNNVN chưa quy định cụ thể tính chất đặc thù của hoạt động thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng đối với tổ chức tín dụng là thanh tra, giám sát thường xuyên, mang tính chất phòng ngừa nhằm ngăn chặn và xử lý “sớm” các rủi ro có khả năng xảy ra trong quá trình hoạt động của các tổ chức tín dụng.

Thứ tư, cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra tác động sâu rộng đến các quốc gia và hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các chính sách liên quan đến việc quản lý, thanh tra, giám sát nhằm bảo đảm sự phát triển an toàn của hệ thống ngân hàng, ngăn ngừa và xử lý sớm mầm mống gây mất ổn định đòi hỏi một khuôn khổ pháp lý chặt chẽ hơn, minh bạch hơn.

Thứ năm, Luật NHNNVN xây dựng từ năm 1997, từ đó đến nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhiều văn bản mới đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Việc sửa đổi Luật NHNNVN là một yêu cầu cấp bách nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.

Thứ sáu, thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách và định hướng đổi mới đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và Ngân hàng Nhà nước nói riêng. Luật NHNNVN cần phải nhanh chóng sửa đổi tạo cơ sở pháp lý để thể chế hoá những chủ trương, chính sách quan trọng này nhằm tạo điều kiện tiếp tục đẩy nhanh cải cách, đổi mới về tổ chức, hoạt động của Ngân hàng Nhà nước.

Ngày 16/6/2010, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 và thay thế Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 01/1997/QH10 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 10/2003/QH11.

II.Quan điểm chỉ đạo đối với việc xây dựng Luật NHNNVN

Việc sửa đổi Luật NHNNVN được thực hiện trên cơ sở các quan điểm cơ bản sau:

a) Luật NHNNVN phải thể chế hoá được quan điểm, chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước, thể hiện được tính đặc thù của hệ thống ngân hàng Việt nam, phù hợp với thể chế chính trị của Việt nam đã được quy định trong Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992, từng bước thực hiện được mục tiêu, định hướng về phát triển Ngân hàng Nhà nước theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.

b) Việc sửa đổi Luật NHNNVN phải kế thừa và phát huy những ưu điểm, những quy định vẫn còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn; khắc phục được những hạn chế, bất cập của những quy định hiện hành, bảo đảm tính ổn định của hệ thống pháp luật Việt Nam và sự hài hoà giữa các quy định của pháp luật liên quan, nhưng vẫn tôn trọng đặc thù của Ngân hàng Nhà nước.

c) Việc sửa đổi Luật NHNNVN phải tạo cơ sở pháp lý để nâng cao một bước trách nhiệm, thẩm quyền và tính chủ động của Ngân hàng Nhà nước trong việc sử dụng các công cụ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ cũng như giám sát an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.

d) Việc sửa đổi Luật NHNNVN phải dựa trên yêu cầu tăng cường tính hệ thống, tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam, bảo đảm sự thống nhất giữa các đạo luật mới được ban hành với những nội dung sửa đổi, bổ sung, phù hợp với những nội dung của các luật có liên quan, nhằm tạo sự thống nhất chung trong hệ thống pháp luật.

đ) Việc sửa đổi Luật NHNNVN phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết và thông lệ, chuẩn mực quốc tế về ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập quốc tế của nền kinh tế nước ta.

III. Bố cục và nội dung chủ yếu của Luật NHNNVN

Luật NHNNVN gồm 7 chương và 66 điều được bố cục như sau:

Chương I – Những quy định chung: có 6 điều (từ Điều 1 đến Điều 6) quy định về đối tượng áp dụng và phạm vi điều chỉnh của Luật; vị trí, chức năng, mục tiêu hoạt động, nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và làm rõ những khái niệm trong Luật NHNNVN.

Phạm vi điều chỉnh của Luật quy định nội dung cơ bản về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: xác định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương,là ngân hàng phát hành tiền và ngân hàng của các tổ chức tín dụng.

Mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Nhà nước là ổn định giá trị đồng tiền, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm an toàn, hiệu quả các hệ thống thanh toán; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng XHCN. Mục tiêu hoạt động này phù hợp với chức năng của Ngân hàng Nhà nước.

Chương II – Tổ chức của Ngân hàng Nhà nước: gồm 3 điều (từ Điều 7 đến Điều 9) quy định về mô hình tổ chức, người lãnh đạo, điều hành, cán bộ công chức của Ngân hàng Nhà nước. Mô hình tổ chức của Ngân hàng Nhà nước được tổ chức thành một hệ thống tập trung, thống nhất gồm bộ máy điều hành và hoạt động nghiệp vụ tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện và đơn vị trực thuộc. Mô hình tổ chức này đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thống nhất của Ngân hàng Nhà nước. Tổ chức, bộ máy của Ngân hàng Nhà nước do Chính phủ quy định. Thống đốc là thành viên của Chính phủ, là người đứng đầu và lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước; chịu trách nhiệm trước Thủ tướng, trước Quốc hội về quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng; đại diện cho pháp nhân của Ngân hàng Nhà nước. Thống đốc có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức và chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ và thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước quy định tại Luật này và những quy định có liên quan của Luật Tổ chức Chính phủ. Cán bộ, công chức của Ngân hàng Nhà nước là cán bộ, công chức của Nhà nước nhưng có cơ chế tuyển dụng, sử dụng phù hợp với hoạt động nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước.    

Chương III – Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước: gồm 6 mục và 32 điều (từ Điều 10 đến Điều 41) quy định về 6 lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước, cụ thể là: Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; Phát hành tiền; Cho vay, bảo lãnh, tạm ứng cho ngân sách; Hoạt động thanh toán và ngân quỹ; Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối; Hoạt động thông tin báo cáo.

Mục 1 –  Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: là một trong những lĩnh vực hoạt động quan trọng nhất của Ngân hàng Nhà nước. Mục này bao gồm 6 điều từ Điều 10 đến Điều 15. Nhiều nội dung trong Mục này đã được điều chỉnh để thể hiện chính xác hơn các công cụ của chính sách tiền tệ. Luật quy định rõ thẩm quyền của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trong việc quyết định sử dụng công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác. Đối với công cụ tái cấp vốn, đối tượng áp dụng đã được mở rộng cho các tổ chức tín dụng chứ không chỉ là các ngân hàng như quy định hiện hành. Đối với công cụ lãi suất, Luật quy định thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong việc công bố lãi suất điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất cơ bản để chống cho vay nặng lãi và quyết định cơ chế điều hành lãi suất giữa các TCTD và khách hàng trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường nhằm ổn định thị trường, tránh tác động bất lợi cho nền kinh tế. Về công cụ tỷ giá, Luật quy định Ngân hàng Nhà nước quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá nhằm nâng cao thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ. Đối với công cụ dự trữ bắt buộc, Luật bỏ quy định về giới hạn tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 0% đến 20 % để bảo đảm sự linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, đồng thời nâng cao thẩm quyền của Ngân hàng Nhà nước trong việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc.

Mục 2– Phát hành tiền giấy và tiền kim loại: gồm 8 điều (từ Điều 16 đến Điều 23) quy định về hoạt động phát hành tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. So với Luật NHNNVN năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2003, nội dung của Mục này không có thay đổi lớn. Một số thay đổi liên quan đến sự tham gia của Bộ Tài chính, Bộ Công an trong quá trình in, đúc, tiêu huỷ tiền. Tổng kết thực tiễn cho thấy có thể giao cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện nhiệm vụ này nhằm giảm bớt gánh nặng cho các Bộ liên quan, đồng thời phản ánh xu hướng tự động hoá trong thời gian tới đây trong các khâu kiểm đếm, xử lý tiền mặt.

Mục 3 – Cho vay, bảo lãnh, tạm ứng cho ngân sách: gồm 3 điều (từ Điều 24 đến Điều 26) quy định về các hoạt động cho vay, bảo lãnh và tạm ứng cho ngân sách Nhà nước.

Mục 4 – Hoạt động thanh toán và ngân quỹ: gồm 4 điều (từ Điều 27 đến Điều 30) quy định về hoạt động thanh toán và ngân quỹ của Ngân hàng Nhà nước.

Mục 5 – Quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối: gồm 4 điều (từ Điều 31 đến Điều 34) quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước về quản lý ngoại hối và hoạt động ngoại hối.

Kể từ khi hình thành vào năm 1991 đến nay, dự trữ ngoại hối nhà nước của Việt Nam được Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước quản lý luôn đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm nguồn lực để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, chính sách tỷ giá, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế và đáp ứng nhu cầu ngoại hối đột xuất cấp bách của Nhà nước.

Dự trữ ngoại hối là một hạng mục tài sản Có trong Bảng cân đối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và được coi là một tài sản bảo đảm cho giá trị tiền trong lưu thông. Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, trong đó chủ yếu là để can thiệp thị trường ngoại hối nhằm ổn định giá trị đồng tiền thông qua nghiệp vụ mua bán ngoại tệ với các tổ chức tín dụng.

Mục 6 – Hoạt động thông tin, báo cáo: có 7 điều (từ Điều 35 đến Điều 41) quy định các nội dung liên quan đến công tác thông tin, báo cáo trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước. Nội dung của Mục này được thay đổi cơ bản so với Luật Ngân hàng Nhà nước hiện hành nhằm phản ánh tầm quan trọng của công tác thông tin, báo cáo trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước.  

Chương IV – Tài chính, kế toán của Ngân hàng Nhà nước: gồm 7 điều (từ Điều 42 đến Điều 48) quy định về vốn pháp định, thu chi tài chính, các quỹ, hạch toán kế toán, kiểm toán của Ngân hàng Nhà nước. Những nội dung quy định này phù hợp với tính chất hoạt động của Ngân hàng Nhà nước với tư cách là một Ngân hàng Trung ương.

Chương V – Thanh tra, giám sát ngân hàng: gồm 13 điều (từ Điều 49 đến Điều 61) quy định về hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước. Chương Thanh tra, giám sát ngân hàng đã được sửa đổi lại cơ bản, quy định cụ thể hoạt động thanh tra, giám sát đặc thù của Ngân hàng Nhà nước và quy định “trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về thanh tra, giám sát ngân hàng của Luật này với quy định của luật khác thì thực hiện theo quy định của Luật này” (Điều 51).

Toàn bộ những nội dung liên quan đến phạm vi, nguyên tắc và nội dung thanh tra, giám sát ngân hàng cũng như các chế tài áp dụng đối với các tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng cũng đã được quy định mới trong  Luật.

Chương VI – Kiểm toán nội bộ: gồm 3 điều (từ Điều 62 đến Điều 64) quy định Kiểm toán nội bộ là một hoạt động nhằm bảo đảm tính minh bạch rõ ràng và tuân thủ pháp luật của Ngân hàng Nhà nước với tư cách là một Cơ quan được giao thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng và quản lý, điều hành một khối lượng tài sản rất lớn của Nhà nước và còn quản lý hoạt động theo tính thống nhất hệ thống (các chi nhánh đặt tại tỉnh, thành phố).

Chương VII – Điều khoản thi hành: gồm 2 điều (Điều 65 và Điều 66) quy định hiệu lực thi hành của Luật và việc hướng dẫn thi hành Luật của Chính phủ, các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

IV. Những nội dung mới của Luật NHNNVN

Luật NHNNVN số 46/2010/QH12 có nhiều nội dung thay đổi, sửa đổi so với Luật NHNNVN năm 1997 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2003, tập trung vào những nội dung quan trọng sau đây:

1. Đối với việc hoạch định và thực thi Chính sách tiền tệ

a) Luật quy định rõ khái niệm chính sách tiền tệ quốc gia để làm cơ sở xây dựng thẩm quyền của các cơ quan (Quốc hội, Chính phủ, NHNN) đối với chính sách tiền tệ, theo đó chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra(Điều 3).

b) Về thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, Luật cụ thể hóa được vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc quyết định và thực thi chính sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, trong đó thẩm quyền và tính tự chủ của Ngân hàng Nhà nước trong việc chủ động, linh hoạt sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ đã được xác định rõ ràng. Cụ thể là: Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy định trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng; Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hằng năm. Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ (Điều 3).

2.Về thẩm quyền cụ thể của Ngân hàng Nhà nước trong việc thực thi chính sách tiền tệ

Một số quy định cụ thể tại các điều khác cũng được xây dựng lại nhằm cụ thể hơn thẩm quyền của NHNN:

a) Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Về công cụ lãi suất, Luật đã quy định lãi suất điều hành chính sách tiền tệ và lãi suất cơ bản để chống cho vay nặng lãi, vừa đảm bảo để NHNN điều hành, thực thi chính sách tiền tệ, vừa có cơ sở để áp dụng quy định của các luật liên quan như Luật Dân sự, Hình sự, Lao động, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước… Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để NHNN thay đổi nội hàm lãi suất cơ bản theo hướng lãi suất cơ bản không phải là cơ sở để cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh mà làm cơ sở cho việc phòng, chống cho vay nặng lãi trong nền kinh tế. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác (Điều 12).

Tỷ giá thể hiện giá trị đối ngoại của đồng tiền. Vì vậy, cơ chế tỷ giá ở các nước do Chính phủ quyết định. Nhưng theo quy định của Luật này, Ngân hàng Nhà nước quyết định chế độ tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá nâng cao hơn thẩm quyền của NHNN trong thực thi chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá trị đồng tiền.

b) Ngân hàng Nhà nước tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về tiền tệ và ngân hàng; công khai thông tin về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật (khoản 7 Điều 4).

c) Ngân hàng Nhà nước chủ trì lập, theo dõi, dự báo và phân tích kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế (Khoản 15 Điều 4).

d) Ngân hàng Nhà nước tham gia với Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh (Khoản 25 Điều 4).

đ) Về Hội đồng tư vấn, Luật quy định Thống đốc có quyền thành lập các ban, hội đồng tư vấn về các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước (khoản 4 Điều 7).      

e) Hoạt động cho vay của Ngân hàng Nhà nước đã được quy định rộng hơn trong trường hợp cho vay đặc biệt: Ngân hàng Nhà nước được cho vay không những đối với các TCTD đã “lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả”  như quy định trong Luật hiện hành mà cả đối với TCTD hoạt động bình thường nhưng “có nguy cơ mất khả năng chi trả do các sự cố nghiêm trọng khác” để bảo đảm có thể can thiệp sớm hơn, hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng (Điều 24).

Về tạm ứng cho Ngân sách Nhà nước, Luật quy định theo Luật Ngân sách nhà nước. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước tạm ứng cho ngân sách trung ương để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Khoản tạm ứng này phải được hoàn trả trong năm ngân sách, trừ trường hợp đặc biệt do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định (Điều 26).

g) Việc quy định NHNN quản lý quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước theo quy định của Chính phủ là phù hợp với pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối. Trong trường hợp việc sử dụng Dự trữ ngoại hối làm thay đổi dự toán Ngân sách nhà nước thì thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách (Điều 32).

h) Luật quy định rõ trách nhiệm giải trình, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước trước Quốc hội, Chính phủ và công chúng. Đây là nội dung mới, quan trọng trong hoạt động của Ngân hàng Trung ương nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các quyết định trong điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công chúng, thị trường. Với tư cách là một cơ quan quản lý tham gia tham mưu kinh tế vĩ mô, nguồn thông tin là những dữ liệu rất quan trọng để Ngân hàng Nhà nước xây dựng chính sách, đánh giá diễn biến thị trường và đưa ra các quyết định điều tiết, do đó các quy định liên quan đến nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức trong việc cung cấp thông tin, số liệu cho Ngân hàng Nhà nước đã được cụ thể hoá trong Luật (Điều 35, Điều 40).

3. Đối với việc thực hiện chức năng giám sát an toàn hoạt động của các TCTD và an toàn hệ thống các TCTD

Vai trò, nhiệm vụ của NHNN trên lĩnh vực thanh tra, giám sát cũng được điều chỉnh để tăng cường thẩm quyền trong xử lý, đặc biệt là việc xử lý các TCTD có vi phạm quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng:

a) Mở rộng phạm vi giám sát đối với toàn bộ hoạt động một TCTD, kể cả các hoạt động thông qua các công ty con của các TCTD: Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện trên nguyên tắc thanh tra, giám sát toàn bộ hoạt động của tổ chức tín dụng… (Khoản 3 Điều 51); Trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thanh tra hoặc phối hợp thanh tra công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng… (khoản 1 Điều 52); bổ sung vào Điều 56 quy định trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát hoặc phối hợp giám sát công ty con, công ty liên kết của tổ chức tín dụng.

b) Nội dung thanh tra, giám sát được quy định cụ thể, phản ảnh tính ổn định trong thực tiễn, thông lệ và yêu cầu mới đối với hoạt động thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng, tập trung xem xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tình hình tài chính của đối tượng thanh tra ngân hàng (Điều 55); Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng… ; Phân tích, đánh giá tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng; Phát hiện, cảnh báo rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng và nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý rủi ro, vi phạm pháp luật (Điều 58).

c) Thẩm quyền của NHNN trong việc can thiệp, xử lý “sớm” các TCTD đã được quy định cụ thể hơn nhằm ngăn chặn kịp thời những khả năng đổ vỡ: NHNN có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của tổ chức tín dụng; đình chỉ, tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải thể tổ chức tín dụng; đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về phá sản đối với tổ chức tín dụng (khoản 12 Điều 4).

d) Để bảo đảm kỷ luật trong hoạt động ngân hàng, các chế tài và thẩm quyền của NHNN đối với các TCTD đã được cụ thể hoá rất rõ trong Luật NHNNVN (Điều 59).

4. Một số điều kiện cần có để NHNN có thể thực hiện được nhiệm vụ theo thẩm quyền.

a) Đối với việc thực thi chính sách tiền tệ:

Bên cạnh quy định về thẩm quyền quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ, NHNN được tổ chức hệ thống thống kê dự báo về tiền tệ và ngân hàng; công khai thông tin về tiền tệ và ngân hàng; NHNN phân tích kết quả thực hiện cán cân thanh toán để làm cơ sở cho việc điều hành chính sách tiền tệ (Điều 4).

Luật cũng có quy định rõ ràng hơn về nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước để xây dựng Bảng cân đối tiền tệ, xây dựng cán cân thanh toán của Việt Nam và đánh giá, dự báo xu hướng phát triển của thị trường tiền tệ (Điều 35).

Ngoài ra, Luật còn có quy định liên quan đến việc mở tài khoản của Kho bạc Nhà nước tại Ngân hàng Nhà nước, theo đó về nguyên tắc Kho bạc Nhà nước phải mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước. Ở tỉnh thành phố trực thuộc trung  ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh không có chi nhánh của Ngân hàng Nhà nước, việc thực hiện các giao dịch cho Kho bạc Nhà nước theo quy định của Ngân hàng Nhà nước (Điều 27). Quy định này nhằm mục tiêu bảo đảm Ngân hàng Nhà nước luôn có được đầy đủ, chính xác số liệu về quan hệ tiền gửi và cho vay của Ngân hàng Nhà nước với Ngân sách Nhà nước để có thể điều hành chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ, hiệu quả.

b) Đối với việc thực hiện thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng:         

Luật quy định theo hướng khẳng định thẩm quyền của NHNN trong toàn bộ quá trình giám sát an toàn hoạt động của TCTD từ khâu cấp phép, xây dựng quy chế an toàn, theo dõi, giám sát hoạt động, can thiệp khi phát sinh khó khăn và chủ động xử lý khi có nguy cơ đổ vỡ.

c) Quy định của Luật NHNNVN khẳng định sự khác biệt về bản chất giữa thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng với thanh tra hành chính thông thường thông qua việc đưa ra nguyên tắc cho hoạt động thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng như sau: Thanh tra, giám sát ngân hàng được thực hiện theo quy định của Luật NHNNVN và các quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về thanh tra, giám sát ngân hàng của Luật NHNNVN với quy định của luật khác thì thực hiện theo quy định của Luật NHNNVN; Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trình tự, thủ tục thanh tra, giám sát ngân hàng (Điều 51).

d) Luật quy định nguyên tắc thực hiện thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng là kết hợp thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng… Đồng thời khẳng định vai trò của NHNN trong việc giám sát toàn diện đối với các TCTD.

đ) Một số các quy định khác bảo đảm NHNN có thể có được một bộ máy thích hợp, nguồn nhân lực có trình độ để thực hiện được nhiệm vụ, trách nhiệm của mình, cụ thể: Luật quy định cho phép Thống đốc được quyết định việc thành lập, chấm dứt hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện (Điều 7); cho phép NHNN được sử dụng vốn pháp định để góp vốn thành lập doanh nghiệp đặc thù nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ nhằm đẩy nhanh các cải cách trong hoạt động của NHNN (Điều 4). Đồng thời, Luật quy định mới về việc Thủ tướng Chính phủ quy định cơ chế tuyển dụng, chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức phù hợp với hoạt động nghiệp vụ đặc thù của Ngân hàng Nhà nước (Điều 9).

V. Tổ chức triển khai thực hiện Luật NHNNVN

Luật NHNNVN có hiệu lực từ ngày 01/01/2011. Để các quy định của Luật có thể đi ngay vào cuộc sống khi Luật có  hiệu lực, các cơ quan có liên quan đã và đang triển khai các hoạt động sau đây:

– Tổ chức xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền hướng dẫn thi hành Luật NHNNVN. Những quy định của Luật đã rõ ràng, cụ thể cần nhanh chóng triển khai đồng thời căn cứ vào tình hình thực tiễn để có những bước điều chỉnh cho phù hợp, không gây ra những xáo trộn, mất ổn định của hệ thống. Những quy định chung trong Luật cần được Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện, Ngân hàng Nhà nước sẽ khẩn trương rà soát để triển khai xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật kịp thời trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền để triển khai thực hiện Luật NHNNVN khi có hiệu lực thi hành, dự kiến Luật sẽ có 07 nghị định do Chính phủ ban hành, 06 văn bản do Thủ tướng Chính phủ ban hành và 15 văn bản do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.

– Tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định của Luật dưới nhiều hình thức tới các cơ quan, tổ chức và nhân dân. Đây là công việc quan trọng, thiết thực nhằm đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống, nâng cao ý thức, trách nhiệm của từng người dân cũng như các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quy định của Luật, tham gia tích cực và có hiệu quả vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Theo: BỘ TƯ PHÁP –VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Vụ pháp chế

————————————————————

DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN:

1. Tư vấn xin cấp phép đầu tư;

2. Tư vấn cấp giấy chứng nhận đầu tư;

3. Tư vấn thành lập doanh nghiệp liên doanh;

4. Các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư trong nước;

5. Tư vấn thành lập công ty liên doanh tại Việt Nam;

6. Dịch vụ tư vấn Cấp thẻ tạm trú cho người nước ngoài;