I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH LUẬT
1. Trong những năm qua, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới kinh tế – xã hội không ngừng phát triển, trật tự, an ninh xã hội được giữ vững, đời sống nhân dân ngày một nâng cao. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang đứng trước những nguy cơ và thách thức lớn. Tình hình tham nhũng diễn ra rất phức tạp ở nhiều lĩnh vực và có xu hướng tăng về quy mô, tính chất ngày càng nghiêm trọng, thể hiện ở số lượng tài sản của Nhà nước bị chiếm đoạt, thất thoát; số đối tượng vi phạm pháp luật, trong đó có nhiều cán bộ, công chức thậm chí có cả một số cán bộ lãnh đạo, quản lý đã có hành vi tham nhũng, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đánh giá: “tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy của hệ thống chính trị và trong nhiều tổ chức kinh tế là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta”1. Trong nhiều văn kiện, hội nghị của Đảng và Nhà nước ta cũng đã thể hiện quyết tâm cao trong cuộc đấu tranh với các hành vi tham nhũng nhằm đẩy lùi, ngăn chặn, hạn chế đến mức thấp nhất các hậu quả xấu của tệ nạn này.
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi: 1900.0191
2. Pháp lệnh chống tham nhũng được Uỷ ban Thường vụ Quốc hộiban hành năm 1998 và được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2000, đã làm cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng. Các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời nhiều vụ việc tham nhũng, thu hồi một số lượng lớn tiền, tài sản cho Nhà nước và nhân dân. Tuy nhiên, Pháp lệnh chống tham nhũng còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng ngừa, chống tham nhũng hiện nay, cụ thể là:
– Chưa quy định đầy đủ, cụ thể về sự công khai, minh bạch của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng ngân sách, đất đai, mua sắm tài sản công, quản lý đầu tư, xây dựng, tuyển dụng, đề bạt, đào tạo, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức.
– Chưa có quy định nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ, định mức, tiêu chuẩn và việc xử lý đối với các trường hợp tự ý sửa đổi các chế độ, định mức, tiêu chuẩn hoặc thực hiện không đúng định mức, chế độ, tiêu chuẩn nhằm mục đích vụ lợi.
– Chưa có cơ chế, quy định để thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của pháp luật về những điều cán bộ, công chức không được làm; trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc báo cáo kịp thời về hành vi tham nhũng; chưa có quy định cụ thể về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức và quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
– Chưa quy định đầy đủ, cụ thể về những người phải kê khai tài sản, thu nhập của mình; những loại tài sản phải được kê khai; thời gian, điều kiện phải kê khai; việc xác minh tài sản kê khai và kết luận, công khai kết luận về sự minh bạch trong việc kê khai tài sản.
– Chưa có quy định cụ thể về việc tổ chức, trách nhiệm và hoạt động phối hợp của các cơ quan thanh tra, kiểm toán Nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan trong phòng, chống tham nhũng.
3. Các quy định của pháp luật về chống tham nhũng hiện hành chưa đáp ứng với yêu cầu của tiến trình hội nhập quốc tế, chưa phù hợp với tinh thần và nội dung của Công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam ký kết năm 2003; Chương trình chống tham nhũng khu vực Châu Á – Thái Bình Dương và sáng kiến chống tham nhũng trong khuôn khổ APEC mà Việt Nam tham gia năm 2004.
Từ những lý do trên đây đã đặt ra yêu cầu cấp thiết sớm xây dựng và ban hành Luật phòng, chống tham nhũng để đáp ứng yêu cầu phòng, chống tham nhũng hiện nay, khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh chống tham nhũng hiện hành, đồng thời thể hiện quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
II. CÁC QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG LUẬT
Việc xây dựng và ban hành Luật phòng, chống tham nhũng quán triệt cácquan điểm và nguyên tắc sau đây:
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về đổi mớitổ chức bộ máy, cải cách nền hành chính nhà nước; về đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tình hình mới. Theo đó, chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân. Việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng phải huy động sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị; khuyến khích, động viên sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân và toàn xã hội; gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi.
2. Phải coi các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn là chủ trương chiến lược, căn bản, lâu dài trong phòng, chống tham nhũng; kết hợp giữa phòng và chống, vừa tích cực phòng ngừa, vừa xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng. Trước mắt, cần quy định cụ thể các biện pháp phòng ngừa thông qua việc tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước; trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước; xây dựng và hoàn thiện chế độ công vụ; công khai, minh bạch và kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức.
3. Tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian qua để kế thừavà phát huy những ưu điểm của các quy định của Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998, bổ sung kịp thời các quy định mới nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong thể chế và thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay.
4. Luật phòng, chống tham nhũng phải bảo đảm tính khả thi, có bước đi thích hợp, phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế – xã hội của nước ta; phù hợp với tinh thần và nội dung của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng và các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam đã gia nhập hoặc ký kết; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trên thế giới về phòng, chống tham nhũng.
III. BỐ CỤC CỦA LUẬT
Luật phòng, chống tham nhũng gồm 8 Chương, 92 điều được Quốc hộinước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005. Chủ tịch nước ký lệnh công bố số 26/2005/L/CTN ngày 09 tháng 12 năm 2005 và có hiệu thi hành từ ngày 01 tháng 6 năm 2006.
Chương 1. Những quy định chung, gồm 10 Điều ( từ Điều 1 đến Điều 10)
Chương 2. Phòng ngừa tham nhũng, gồm 48 Điều ( từ Điều 11 đến Điều 58) được chia thành 6 mục.
Mục 1. Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, gồm 23 (từ Điều 11 đến Điều 33).
Mục 2. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn, gồm 2 điều( Điều 34 và Điều 35).
Mục 3.Quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức, gồm 8 điều ( từ Điều 36 đến Điều 43).
Mục 4. Minh bạch tài sản, thu nhập, gồm 10 điều ( từ Điều 44 đến Điều 53).
Mục 5. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng, gồm 2 điều ( Điều 54 và Điều 55).
Mục 6. Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán, gồm 3 điều ( từ Điều 56 đến Điều 58).
Chương 3. Phát hiện tham nhũng, gồm 9 điều ( từ Điều 59 đến Điều 67) được chia thành 3 mục.
Mục 1. Công tác kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị, gồm 3 điều ( từ Điều 59 đến Điều 61).
Mục 2. Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử, giám sát, gồm 2 điều (Điều 62 và Điều 63).
Mục 3. Tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng, gồm 4 điều ( từ Điều 64 đến Điều 67).
Chương IV. Xử lý hành vi tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật khác, gồm 4 điều ( từ Điều 68 đến Điều 71) được chia thành 2 mục.
Mục 1. Xử lý kỷ luật, xử lý hình sự, gồm 2 điều ( Điều 68 và Điều 69).
Mục 2. Xử lý tài sản tham nhũng, gồm 2 điều ( Điều 70 và Điều 71).
Chương V. Tổ chức, trách nhiệm và hoạt động phối hợp của các cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và của cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan trong phòng, chống tham nhũng, gồm 13 điều ( từ Điều 72 đến Điều 84) được chia thành 2 mục.
Mục 1. Tổ chức, chỉ đạo, phối hợp và trách nhiệm trong công tác phòng, chống tham nhũng, gồm 11điều ( từ Điều 72 đến Điều 82).
Mục 2. Kiểm tra hoạt động chống tham nhũng trong cơ quan Thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, gồm 2 điều ( Điều 83 và Điều 84).
Chương VI. Vai trò và trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, gồm 4 điều ( từ Điều 85 đến Điều 88).
Chương VII. Hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng, gồm 2 điều( Điều 89 và Điều 90).
Chương VIII. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều ( Điều 91 và Điều 92).
IV. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT
1.Về tên gọi của Luật phòng, chống tham nhũng
Trong quá trình thảo luận, có những ý kiến khác nhau về tên gọi của Luật như ” Luật chống tham nhũng”hoặc ” Luật phòng, chống tham nhũng”. Nhiều ý kiến cho rằng, nếu lấy tên gọi của Luật là “Luật chống tham nhũng” nhưtên gọi của Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 thì không thể hiện rõ các biện pháp phòng ngừa tham nhũng của Nhà nước ta.
Với tên gọi là “Luật phòng, chống tham nhũng” thì phù hợp với phạm vi điều chỉnh và các nội dung chủ yếu của Luật là phòng ngừa tham nhũng và phát hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng, trong đó phòng ngừa là biện pháp quan trọng nhất nhằm hạn chế, ngăn chặn việc phát sinh các hành vi tham nhũng, bảo đảm cho việc chống tham nhũng đạt hiệu quả cao.
2. Khái niệm tham nhũng:
Hành vi tham nhũng theo Luật này gồm 3 yếu tố cơ bản là: Yếu tố chức vụ, quyền hạn; yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn và yếu tố vụ lợi.
2.1. Người có chục vụ, quyền hạn bao gồm:
-Cán bộ, công chức, viên chức.
-Sĩ quan, quan nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuậttrong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân.
-Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp.
-Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
2.2. Các hành vi tham nhũng
Trên cơ sở khái niệm hành vi tham nhũng và khái niệm người có chức vụ, quyền hạn nêu trên, Điều 3 của Luật phòng, chống tham nhũng quy định cụ thể 12 loại hành vi tham nhũng, bao gồm:
-Tham ô tài sản.
-Nhận hối lộ.
-Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
– Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
– Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
– Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
-Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi.
– Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
-Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Trong 12 loại hành vi tham nhũng nêu trên, thì có 7 loại hành vi đầu đã được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (từ Điều 278 đến Điều 284), 5 loại hành vi sau là những hành vi đã phát sinh trong xã hội và đang trở nên phổ biến, cần được quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý.
3. Phòng ngừa tham nhũng
Phòng ngừa tham nhũng được coi là yếu tố quan trọng, mang tính chiến lược, quyết định hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng đã quy định một hệ thống các biện pháp nhằm phòng ngừa tham nhũng và có thể coi đây là nội dung quan trọng nhất của Luật.
3.1.Công khai, minh bạch hoá hoạt động của bộ máy nhà nước
Công khai, minh bạch là một giải pháp quan trọng trong hệ thống các giải pháp phòng ngừa tham nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng đã dành nhiều quy định cho công khai, minh bạch, vấn đề công khai, minh bạch đã được đề cập một cách toàn diện, chi tiết và có tính khả thi. Nói cách khác, công khai, minh bạch đã được ” cơ chế hoá” trong đạo luật này.
Theo đó, về nguyên tắc, toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước phải được công khai, trừ trường hợp pháp luật quy định phải bí mật. Đồng thời, để ràng buộc và nâng cao trách nhiệm của của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Luật quy định các hình thức công khai, minh bạch hoá hoạt động của cơ quan, tổ chức mình. Luật phòng, chống tham nhũng cũng lựa chọn những nội dung quan trọng, dễ phát sinh tham nhũng, buộc phải công khai như: mua sắm công, quản lý dự án đầu tư, xây dựng, tài chính và ngân sách nhà nước, huy động và sử dụng các khoản viện trợ, quản lý và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quản lý và sử dụng đất, nhà ở , y tế, giáo dục, khoa học – công nghệ, thể dục thể thao, thanh tra, kiểm toán nhà nước, hoạt động giải quyết công việc của công dân, doanh nghiệp, tư pháp, công tác cán bộ.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong đó có các cơ quan báo chí được phép yêu cầu các cơ quan nhà nước phải trả lời công khai về các hoạt động của mình theo quy định của pháp luật. Các cơ quan được yêu cầu chỉ được phép từ chối cung cấp thông tin nếu nội dung được yêu cầu thuộc về bí mật nhà nước.
3.2. Xây dựng, hoàn thiện và bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ, định mức, tiêu chuẩn.
Thực tế cho thấy một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng tham nhũng, lãng phí tài sản nhà nước đó là việc hệ thống chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong quản lý nhà nước chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện, việc thực hiện không đúng hoặc cố ý làm trái. Luật phòng, chống tham nhũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc xây dựng, hoàn thiện và đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong quản lý nhà nước và trong các hoạt động kinh tế – xã hội. Đồng thời, trách nhiệm pháp lý cụ thể của đối tượng vi phạm cũng đã được xác định rõ, góp phần răn đe cũng như tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho việc xử lý vi phạm, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý của người cho phép sử dụng thực hiện sai chế độ, định mức, tiêu chuẩn.
3.3. Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức
Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức không chỉ có nhiệm vụ là phòng, chống tham nhũng mà nó còn có vai trò rất lớn trong việc xây dựng một nền quản lý nói chung và quản lý hành chính nói riêng trong sạch, liêm chính và trách nhiệm. Luật phòng, chống tham nhũng một mặt tiếp tục bổ sung để hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh về quyền, nghĩa vụ và những điều cấm đối với cán bộ, công chức, mặt khác, quy định trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc ban hành bộ quy tắc ứng xử riêng phù hợp với đặc thù của ngành, cơ quan mình. Theo đó, Điều 37 quy định về những điều cán bộ, công chức, viên chức không được làm trên cơ sở phát triển quy định hiện hành tương ứng của Pháp lệnh cán bộ, công chức và Pháp lệnh chống tham nhũng. Điều 38 và Điều 39 quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong việc báo cáo và xử lý báo cáo về dấu hiệu tham nhũng.
3.4. Việc tặng quà và nhận quà tặng
Tặng quà và nhận qùa tặng là vấn đề mang tính chất xã hội, là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, từ trước đến nay được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức – xã hội là chủ yếu. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp đã bị lợi dụng để thực hiện hành vi tiêu cực. Vì vậy, vấn đề này cần phải được điều chỉnh trong Luật phòng, chống tham nhũng. Điều 40 quy định một số nguyên tắc chung về quà tặng và nhận quà tặng nhằm ngăn ngừa việc lợi dụng quà tặng, nhận quà tặng để đưa, nhận hối lộ. Chính phủ sẽ có quy định chi tiết về việc tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng của cán bộ, công chức, viên chức.
3.5. Chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức
Việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức được coi là một giải pháp quan trọng nhằm ngăn ngừa hiện tượng cấu kết, móc nối hình thành “đường dây” tiêu cực, tham nhũng. Điều 43 quy định một số nguyên tắc chung về chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức. Để đảm bảo sự ổn định của quản lý và tính chất chuyên sâu của công việc, việc chuyển đổi chỉ là chuyển đổi vị trí, mang tính chất địa lý, cơ học chứ không phải chuyển đổi về nội dung, tính chất công việc, đồng thời việc chuyển đổi chỉ thực hiện đối với một số vị trí quản lý tiền, tài sản của nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc, giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3.6. Minh bạch tài sản của cán bộ, công chức
Với việc ban hành Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998, Việt Nam đã thực hiện việc kê khai tài sản – một nội dung của cơ chế minh bạch tài sản. Tuy nhiên, cho đến nay, hệ thống minh bạch tài sản ở Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở kê khai tài sản đơn thuần, còn thiếu nhiều yếu tố để nhà nước có thể kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Luật phòng, chống tham nhũng đã quy định một cách khá toàn diện và đầy đủ những nội dung cơ bản nhất của hệ thống minh bạch tài sản, bao gồm những vấn đề chính sau:
– Cán bộ, công chức phải kê khai tài sản hàng năm. Để tránh che dấu, tẩu tán tài sản tham nhũng, ngoài việc kê khai tài sản của bản thân, cán bộ, công chức còn phải kê khai tài sản của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên. Đối tượng tài sản phải kê khai được mở rộng hơn so với Pháp lệnh chống tham nhũng.
– Việc xác minh tài sản được tiến hành trong một số trường hợp nhất định. Đây là điểm mới so với Pháp lệnh chống tham nhũng. Khi xem xét đề bạt, bổ nhiệm, bầu cử hoặc có hành vi tham nhũng thì thủ trưởng cơ quan tổ chức việc xác minh tài sản để xem cán bộ, công chức có kê khai trung thực hay không.
– Bản kết luận về sự minh bạch trong kê khai tài sản được công khai trong một số trường hợp nhất định theo yêu cầu và trên cơ sở quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
– Người có nghĩa vụ kê khai tài sản sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật nếu kê khai không trung thực, nếu là người ứng cử thì sẽ bị loại khỏi danh sách bầu cử, người được dự kiến bổ nhiệm, phê chuẩn sẽ không được bổ nhiệm, phê chuẩn vào chức vụ dự kiến.
3.7. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng
Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu là một yếu tố quan trọng trong quản lý nhà nước và chống tham nhũng nói riêng. Luật phòng, chống tham nhũng quy định một cách chi tiết về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, bao gồm những nội dung chính sau:
– Phân định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức với cấp phó được giao phụ trách các lĩnh vực; theo đó, người đứng đầu phải chịu trách nhiệm chung và phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực do mình quản lý, cấp phép chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực được giao phụ trách.
– Phân cấp trách nhiệm rõ ràng cho người đứng đầu đơn vị, phải chịu trách nhiệm trực tiếp khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong đơn vị mình.
Để tạo cơ sở xử lý trách nhiệm người đứng đầu, trong kết luận thanh tra, kiểm toán, điều tra phải có kết luận về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị xảy ra tham nhũng là yếu kém trong quản lý, buông lỏng quản lý hay bao che cho hành vi tham nhũng.
4. Phát hiện tham nhũng
4.1. Phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử, giám sát
Luật phòng, chống tham nhũng quy định các hình thức hoạt động cụ thể để phát hiện hành vi tham nhũng. Theo đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thường xuyên hoặc đột xuất kiểm tra hoạt động của cán bộ, công chức, viên chức nhằm chủ động phát hiện và kịp thời xử lý hành vi tham nhũng; cơ quan quản lý có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra hoạt động chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình nhằm kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng. Cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án, Quốc hội, Hội đồng nhân dân có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng thông qua công tác thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, kiểm sát, xét xử và giám sát.
4.2. Tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng
Tố cáo là một nguồn tin quan trọng trong phát hiện hành vi tham nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng quy định những nguyên tắc chung và nội dung cơ bản của tố cáo hành vi tham nhũng. Luật quy định cơ chế bảo vệ người tố cáo, quyền và nghĩa vụ của người tố cáo; trách nhiệm của cơ quan, đơn vị trong việc tiếp nhận và xử lý tố cáo hành vi tham nhũng; khen thưởng người tố cáo hành vi tham nhũng.
5. Xử lý hành vi tham nhũng và các hành vi vi phạm pháp luật khác
5.1. Xử lý kỷ luật, xử lý hình sự
Luật quy định hai hình thức chế tài áp dụng đối với người có hành vi tham nhũng là xử lý kỷ luật hoặc xử lý hình sự. Theo đó, đối tượng bị áp dụng chế tài gồm: người có hành vi tham nhũng quy định tại Điều 3 của Luật; người không báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham nhũng; người không xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo về hành vi tham nhũng; người có hành vi đe doạ, trả thù, trù dập người phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách; người thực hiện hành vi khác vi phạm quy định của Luật phòng, chống tham nhũng và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
5.2. Xử lý tài sản tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng quy định về nguyên tắc tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu, trả lại cho chủ sử hữu, quản lý hợp pháp hoặc sung công quỹ nhà nước. Người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi hành vi đưa hối lộ bị phát hiện thì được trả lại tài sản đã dùng để hối lộ. Theo Điều 71 về thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài thì trên cơ sở điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hợp tác với Chính phủ nước ngoài trong việc thu hồi tài sản của Việt Nam hoặc của nước ngoài bị tham nhũng và trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu hợp pháp.
6. Tổ chức, trách nhiệm và hoạt động phối hợp của các cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan trong phòng, chống tham nhũng
6.1. Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng
Hiện nay, nhiệm vụ chống tham nhũng được giao cho nhiều cơ quan khác nhau, với nguyên tắc toàn bộ các cơ quan nhà nước, toàn thể hệ thống chính trị và cả xã hội có trách nhiệm tham gia đấu tranh chống tham nhũng. Tuy nhiên, do hoạt động chống tham nhũng của các cơ quan còn mang tính riêng lẻ, thiếu sự thống nhất và phối hợp nên hiệu quả của hoạt động phòng, chống tham nhũng chưa cao. Luật phòng, chống tham nhũng quy định việc thành lập Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng với tư cách là cơ quan tham mưu chính sách và phối hợp. Cơ quan này sẽ không trực tiếp can thiệp mà chỉ điều phối hoạt động của các cơ quan thực thi pháp luật sẵn có, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả chống tham nhũng chung của tất cả các cơ quan này. Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng là một cơ quan luật định, có bộ phận giúp việc chuyên trách.
6.2. Đơn vị chống tham nhũng chuyên trách
Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao là các cơ quan có vai trò, nhiệm vụ hết sức quan trọng trong phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng hiện đang được tiến hành trong tổng thể các nhiệm vụ phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự của các cơ quan này. Luật phòng, chống tham nhũng quy định thành lập các đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng trong các cơ quan nêu trên nhằm tăng cường khả năng chuyên sâu, tính độc lập trong hoạt động từ đó nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.
6.3. Cơ chế phối hợp trong phòng, chống tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng quy định nhiều nội dung quan trọng nhằm hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điềutra, Viện kiểm sát với những nội sung cơ bản sau:
– Nhấn mạnh vai trò trách nhiệm của từng cơ quan trong phòng, chống tham nhũng và đặc biệt là trách nhiệm phối hợp.
– Phân định rõ ràng hoạt động phối hợp chung nhằm ngăn ngừa tham nhũng và phối hợp phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng có dấu hiệu tội phạm.
7. Vai trò và trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng
Vai trò và sự tham gia của xã hội trong phòng, chống tham nhũng là một yếu tố quan trọng trong hệ thống phòng, chống tham nhũng hiệu quả. Luật phòng, chống tham nhũng tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý hiện hành nhằm khuyến khích và đảm bảo việc tham gia chủ động, tích cực và hiệu quả của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, gồm các nội dung sau:
– Ghi nhận và đề cao vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể xã hội, báo chí, doanh nghiệp và công dân trong phòng, chống tham nhũng; có các quy định cụ thể nhằm khuyến khích và đảm bảo sự tham gia của xã hội.
– Quy định rõ về quyền tiếp cận thông tin của cơ quan, tổ chức và công dân; cơ chế cụ thể để thực hiện quyền này.
– Quy định những nội dung cơ bản về tố cáo hành vi tham nhũng. Chế định về tố cáo hành vi tham nhũng là một phần quan trọng của Luạt phòng, chống tham nhũng. Đây cũng là cơ chế quan trọng nhất để công dân trực tiếp tham gia phát hiện các hành vi tham nhũng.
8. Hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng
Trên cơ sở ghi nhận nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các bên cùng có lợi, Luật phòng, chống tham nhũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng như sau:
– Thanh tra Chính phủ phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Công an và các cơ quan hữu quan thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về nghiên cưú, đào tạo, xây dựng chính sách, trao đổi thông tin, hỗ trợ tài chính, trợ giúp kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm trong phòng, chống tham nhũng.
– Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong phòng, chống tham nhũng.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Để Luật phòng, chống tham nhũng được triển khai thực hiện có hiệu quả sớm đi vào cuộc sống, trước mắt cần tập trung một số công việc sau đây:
1. Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, tập huấn giới thiệu Luật phòng, chống tham nhũng
Tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn, tập huấn giới thiệu Luật phòng, chống tham nhũng cho tất cả đối tượng có liên quan, bao gồm các bộ; cơ quan ngang bộ; cơ quan thuộc Chính phủ; Uỷ ban nhân dân các cấp và nhân dân về những nội dung quy định trong Luật.
2. Phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật một cách sâu rộng đến với mọi tầng lớp nhân dân.
3. Xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng.
BỘ TƯ PHÁP – VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
VĂN PHÒNG QUỐC HỘI – VỤ PHÁP LUẬT
THAM KHẢO DỊCH VỤ TƯ VẤN LIÊN QUAN:
1. Tư vấn pháp luật lao động;
2.Tư vấn pháp luật lĩnh vực dân sự;
3. Tư vấn luật hành chính Việt Nam;
4. Luật sư riêng cho doanh nghiệp;
5.Dịch vụ Luật sư của LVN Group tư vấn giải quyết tranh chấp tại tòa án.
6. Luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình;