I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Thời gian qua, chúng ta đã thu được một số kết quả theo hướng này. Nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật được sáng tạo ra, nhiều công trình nghiên cứu khoa học có giá trị lý luận và thực tiễn đã được thực hiện, hàng trăm sáng chế do người Việt Nam tạo ra đã được đăng ký và đưa vào sử dụng, hàng chục ngàn nhãn hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam đã phát huy tác dụng trong hoạt động thị trường, hàng ngàn giải pháp kỹ thuật từ nước ngoài đã được phổ biến và chuyển giao cho Việt Nam…

Tuy nhiên những kết quả nói trên là rất khiêm tốn, không tương xứng với nội lực của dân tộc và chưa đáp ứng được đòi hỏi của quá trình phát triển. Bên cạnh đó, vấn nạn hàng giả, hàng nhái, hàng sao chép lậu, nạn cóp nhặt, không trích dẫn các ý tưởng, các phần viết của các tác phẩm và các công trình nghiên cứu… đang trở nên phổ biến và diễn biến ngày càng phức tạp. Nếu không có biện pháp ngăn chặn và phòng ngừa thích hợp, tệ nạn nói trên sẽ thủ tiêu động lực sáng tạo và cản trở cạnh tranh lành mạnh, ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư của nước ta.

Cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ với nội dung cơ bản là pháp luật thừa nhận các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, cũng như các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu… là các tài sản trí tuệ; quyền sở hữu các đối tượng đó thuộc về người có công lao tạo ra chúng và quyền đó được pháp luật bảo vệ. Đây là công cụ pháp lý quan trọng tạo động lực cho hoạt động sáng tạo hướng tới mục tiêu nói trên.

Mặt khác, trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập, vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ trở nên đặc biệt quan trọng và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Chưa bao giờ vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ lại được đặt ra một cách gay gắt và cấp bách như hiện nay khi nền kinh tế thế giới chuyển sang thời kỳ mới thay đổi về chất – nền kinh tế dựa trên tri thức. Đối với Việt Nam, việc xây dựng và duy trì một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hữu hiệu là một trong những yếu tố quan trọng quyết định thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (2000), Hiệp định Sở hữu trí tuệ Việt Nam – Thụy sỹ (1999) và đặc biệt là Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) – WTO buộc chúng ta phải đạt được hai chuẩn mực lớn về nội dung bảo hộ (tính đầy đủ) và về hiệu lực thực thi pháp luật (tính hiệu quả) của hệ thống sở hữu trí tuệ.

Như vậy, bảo hộ sở hữu trí tuệ vừa xuất phát từ nhu cầu nội tại của quá trình phát triển kinh tế – xã hội,  vừa là một đòi hỏi bắt buộc khi tham gia các quan hệ kinh tế quốc tế và hội nhập.

Thực trạng pháp luật và thực thi quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam cho thấy, chúng ta đã có nhiều nỗ lực đáng ghi nhận trong việc đáp ứng các yêu cầu về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập. Có thể nói, bảo hộ sở hữu trí tuệ là một trong những lĩnh vực có sự phát triển tương đối nhanh ở Việt Nam, nhưng vẫn còn nhiều điểm chưa tiến kịp so với thực tiễn và kinh nghiệm của các nước tiên tiến trên thế giới.

a. Về thực trạng pháp luật

Trên cơ sở Phần thứ sáu của Bộ luật Dân sự năm 1995 và hơn 40 văn bản liên quan, chúng ta đã có một hệ thống quy phạm pháp luật bảo hộ sở hữu trí tuệ tương đối đầy đủ và tiếp cận được với tiêu chuẩn bảo hộ trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, hệ thống này đã bộc lộ các tồn tại cần được khắc phục kịp thời, đó là: hệ thống quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ còn tản mạn, thiếu đồng bộ, hiệu lực thi hành thấp; các quy định về sở hữu trí tuệ của Bộ luật Dân sự chủ yếu là những nguyên tắc chung, chưa đầy đủ và cụ thể; các quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ (trình tự, thủ tục giải quyết vi phạm, cơ chế phối hợp và trách nhiệm của các cơ quan thực thi) còn thiếu cụ thể, minh bạch dẫn tới lúng túng trong triển khai thực hiện.

b. Về tình hình thực thi pháp luật

Mặc dầu đã có nhiều nỗ lực ngăn chặn từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhưng tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là xâm phạm quyền tác giả còn phổ biến. Các sản phẩm tinh thần sao chép, giả mạo xuất hiện ngày càng nhiều. Hoạt động sáng tạo chân chính đang bị cản trở và có nguy cơ bị thui chột vì tệ nạn sao chép. Hiện tượng hàng giả, hàng nhái,… diễn biến phức tạp gây thiệt hại cả cho người có tài sản trí tuệ lẫn người tiêu dùng và xã hội, khiến cho nhu cầu bảo đảm thực thi trở nên căng thẳng. Có thể nói, bất cập lớn nhất của chúng ta hiện nay là vấn đề thực thi quyền với hiệu lực, hiệu quả thấp của cơ chế bảo hộ.

 Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này, đó là: nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng của vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ và ý thức tôn trọng pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ chưa đúng mức; năng lực cán bộ còn thấp và tổ chức hệ thống cơ quan thực thi quyền chưa phù hợp; tác động của quá trình mở cửa khiến cho hàng giả, hàng nhái, hàng sao chép lậu từ nước ngoài thâm nhập ngày càng nhiều vào Việt Nam; cấu trúc thị trường manh mún, lạc hậu; pháp luật chưa đủ quy định minh bạch về trình tự, thủ tục, mức độ áp dụng các chế tài liên quan…

Thực trạng trên đã gây nên những quan ngại nhất định trong các nhà đầu tư và chính phủ nước ngoài. Một số đối tác quan trọng của Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới đều nhận định, vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ là một điểm yếu mà Việt Nam cần khắc phục.

Để giải quyết các tồn tại và bất cập nêu trên của hệ thống pháp luật và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, Nhà nước cần phải đổi mới toàn bộ cấu trúc của hệ thống các quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ bằng cách xây dựng và ban hành Luật Sở hữu trí tuệ – một đạo luật chuyên ngành thống nhất và cơ bản điều chỉnh các quan hệ về sở hữu trí tuệ. Sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ không những bảo đảm đáp ứng được các mục tiêu và đòi hỏi khắt khe của quá trình hội nhập, khắc phục được các bất cập hiện đang tồn tại, làm cho hệ thống quy phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ của nước ta tiến gần hơn với hệ thống của nhiều nước trên thế giới, mà còn là một công cụ quan trọng thúc đẩy hoạt động sáng tạo, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ và tăng tính hấp dẫn đối với các chủ thể đầu tư nước ngoài.

 

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Luật Sở hữu trí tuệ được soạn thảo trên cơ sở quán triệt các quan điểm chỉ đạo cơ bản sau đây:

1. Luật Sở hữu trí tuệ phải thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhằm: khuyến khích hoạt động nghiên cứu sáng tạo văn học, nghệ thuật, khoa học và công nghệ, thúc đẩy đổi mới, chuyển giao công nghệ và các giao dịch về tài sản trí tuệ, tăng cường hiệu quả của công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Cùng với đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước, vấn đề tạo lập cơ chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã được Đảng quan tâm chỉ đạo ngay từ Đại hội VI (1986). Chủ trương “thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí tuệ” tiếp tục được khẳng định tại Văn kiện của Đại hội VIII, đặc biệt, được xác định thành một nhiệm vụ quan trọng về “hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ” tại Văn kiện của Đại hội IX và Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khoá IX). Như vậy, việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ là một bước tiến mới trong việc thể chế hoá các chủ trương, đường lối nói trên nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ, đáp ứng các đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế – xã hội đất nước theo hướng hội nhập.

2. Luật Sở hữu trí tuệ phải bảo đảm lợi ích quốc gia trước sức ép của các cường quốc trong quá trình hội nhập, đồng thời, tôn trọng các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam đã và sẽ ký kết hoặc tham gia.

Việc đảm bảo lợi ích quốc gia phải trở thành một ưu tiên hàng đầu ngay cả khi buộc phải thoả mãn các chuẩn mực trong các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ. Việc gia nhập các điều ước quốc tế trong lĩnh vực này gây ra các quan ngại về các khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn quá khắt khe của hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ theo TRIPS – WTO và khả năng bất lợi đối với các nước nghèo khi đại đa số các tài sản trí tuệ nằm ở các nước phát triển.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chỉ có một số rất nhỏ (1/10.000) sáng chế của thế giới được bảo hộ độc quyền ở Việt Nam và về mặt nguyên tắc, người Việt Nam hoàn toàn có quyền tiếp cận, nghiên cứu, thậm chí tự do khai thác và cải tiến 99,99% số sáng chế có trên thế giới. Bên cạnh đó, xuất hiện ngày càng nhiều các tác phẩm văn học, nghệ thuật, sáng chế, giải pháp kỹ thuật mới do người Việt Nam sáng tạo; nhiều nhãn hiệu của Việt Nam đang trở nên nổi tiếng và nhiều sản phẩm đặc thù có uy tín gắn liền với các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Trong khi khả năng cạnh tranh còn thấp và khả năng tự bảo vệ còn hạn chế, nếu không có cơ chế bảo hộ thì những tài sản đó sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị xâm phạm không những ở Việt Nam mà cả ở nước ngoài.

Do vậy, Luật Sở hữu trí tuệ đặc biệt chú trọng các biện pháp có tính chất tự vệ như: các điều kiện hạn chế và chống lạm dụng quyền; áp dụng cơ chế nhập khẩu song song; chế độ cấp phép bắt buộc và khả năng huỷ bỏ hiệu lực bảo hộ. Tuy nhiên, các quy định này không vượt quá các chừng mực mà WTO cho phép và không gây quan ngại cho các đối tác nước ngoài.

3. Luật Sở hữu trí tuệ phải bảo đảm nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa cá nhân (chủ sở hữu) với công chúng (xã hội) để tạo động lực thúc đẩy phát triển hoạt động nghiên cứu sáng tạo, sản xuất, kinh doanh, hướng tới mục tiêu nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho toàn xã hội.

Đây là một trong các nguyên tắc đặc thù của bảo hộ sở hữu trí tuệ, đặc biệt trong lĩnh vực bảo hộ các sáng chế, nhằm cân bằng lợi ích của chủ sở hữu  với xã hội, cộng đồng. Để được cấp Bằng độc quyền sáng chế, chủ sở hữu sáng chế phải công bố rộng rãi bản chất của sáng chế cho toàn xã hội, đồng thời Bằng độc quyền sáng chế chỉ được cấp trong một thời hạn nhất định, sau đó, toàn xã hội có thể tiếp cận, ứng dụng sáng chế, tạo điều kiện cho các hoạt động nghiên cứu sáng tạo khoa học và công nghệ mới. Nguyên tắc cân bằng lợi ích này cũng dẫn tới việc Luật Sở hữu trí tuệ quy định một số đối tượng sở hữu trí tuệ không được pháp luật bảo hộ nếu trái với lợi ích và trật tự xã hội, nguyên tắc nhân đạo và phương hại cho quốc phòng, an ninh quốc gia cũng như một số biện pháp khác nhằm hạn chế hợp lý quyền của chủ sở hữu trí tuệ: có cơ chế bắt buộc cấp phép sử dụng; cho phép nhập khẩu song song; cho phép chuyển giao, chuyển nhượng… Mặt khác, Nhà nước cũng luôn khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo trong nước, đồng thời, có chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với các tổ chức, cá nhân tạo ra được nhiều sản phẩm trí tuệ có giá trị phục vụ phát triển kinh tế và cải thiện đời sống xã hội.

4. Luật Sở hữu trí tuệ phải kế thừa các quy định của hệ thống pháp luật trước đây về sở hữu trí tuệ đã được thực tiễn kiểm nghiệm, đồng thời, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật của các nước để vận dụng phù hợp với tình hình Việt Nam.

Nguyên tắc kế thừa pháp luật được quán triệt trên cơ sở nghiên cứu và rà soát nghiêm túc hệ thống quy định pháp luật trước đây về sở hữu trí tuệ để đưa vào Luật Sở hữu trí tuệ những quy định tối ưu. Bên cạnh đó, có bổ sung một số quy định mới cho phù hợp với các điều ước quốc tế (điều kiện bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế, nhãn hiệu chứng nhận,…). Ngoài ra, để hoàn thiện và đảm bảo tính hợp lý của cơ chế bảo hộ, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi một số quy định hiện hành (không coi giải pháp hữu ích là một đối tượng sở hữu công nghiệp riêng biệt mà là một dạng sáng chế có trình độ thấp hơn,…).

Bên cạnh việc vận dụng các điều ước quốc tế quan trọng nhất về sở hữu trí tuệ (Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp; Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật; Hiệp định TRIPS-WTO; Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ;…), Luật Sở hữu trí tuệ thể hiện kinh nghiệm thực tiễn và pháp luật về sở hữu trí tuệ của các nước để vận dụng phù hợp với tình hình Việt Nam.

5. Luật Sở hữu trí tuệ phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, đầy đủ và hiệu quả.

Mối quan hệ giữa Luật Sở hữu trí tuệ và Bộ luật Dân sự, Luật Cạnh tranh và với một số đạo luật khác được đặc biệt chú ý khi xây dựng Luật Sở hữu trí tuệ theo tinh thần tránh chồng chéo, mâu thuẫn. Đồng thời, Luật Sở hữu trí tuệ được quy định chi tiết để hạn chế số lượng văn bản hướng dẫn thi hành và tạo thuận lợi cho các chủ thể thi hành. Ngoài ra, để đạt được mục tiêu minh bạch, khả thi và đầy đủ, Luật Sở hữu trí tuệ cũng đặc biệt chú trọng các quy định về xác lập quyền – vấn đề thường được các chủ thể trong và ngoài nước quan tâm. Các quy định này về cơ bản phù hợp với trình tự, thủ tục thống nhất được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.

 

III. BỐ CỤC CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá XI) thông qua ngày 29/11/2005 tại kỳ họp thứ 8 (Luật số 50/2005/QH11), được công bố theo Lệnh của Chủ tịch nước số 28/2005/L/CTN ngày 12/12/2005, và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006 (sau đây gọi tắt là Luật Sở hữu trí tuệ).

Luật Sở hữu trí tuệ gồm có 6 Phần, 18 Chương và 222 Điều quy định về những vấn đề sau đây:

Phần thứ nhất: Những quy định chung

Phần này gồm có 12 Điều (từ Điều 1 đến Điều 12), quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; đối tượng quyền sở hữu trí tuệ; giải thích từ ngữ; áp dụng pháp luật; căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ; giới hạn quyền sở hữu trí tuệ; chính sách của Nhà nước về sở hữu trí tuệ; quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; nội dung quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ; trách nhiệm quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ; phí, lệ phí về sở hữu trí tuệ.

Phần thứ hai: Quyền tác giả và quyền liên quan

Phần này gồm có 6 Chương (từ Chương I đến Chương VI), 45 Điều (từ Điều 13 đến Điều 57), quy định về điều kiện bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; nội dung, giới hạn quyền, thời hạn bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan; chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan (chuyển nhượng quyền tác giả, quyền liên quan; chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan); chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan; tổ chức đại diện, tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan.

Phần thứ ba: Quyền sở hữu công nghiệp

Phần này gồm có 5 Chương (từ Chương VII đến Chương XI), 99 Điều (từ Điều 58 đến Điều 156), quy định về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh); xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý (đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý; đơn đăng ký sở hữu công nghiệp; thủ tục xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp và cấp văn bằng bảo hộ; đơn quốc tế và xử lý đơn quốc tế); chủ sở hữu, nội dung và giới hạn quyền sở hữu công nghiệp; chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp (chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp; chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp; bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế; đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp); đại diện sở hữu công nghiệp.

Phần thứ tư: Quyền đối với giống cây trồng

Phần này gồm có 4 Chương (từ Chương XII đến Chương XV), 41 Điều (từ Điều 157 đến Điều 197), quy định về điều kiện bảo hộ quyền đối với giống cây trồng; xác lập quyền đối với giống cây trồng (xác lập quyền đối với giống cây trồng; đơn và thủ tục xử lý đơn đăng ký bảo hộ); nội dung và giới hạn quyền đối với giống cây trồng; chuyển giao quyền đối với giống cây trồng.

Phần thứ năm: Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

Phần này gồm có 3 Chương (từ Chương XVI đến Chương XVIII), 22 Điều (từ Điều 198 đến Điều 219), quy định chung về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; quy định về xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự; xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính và hình sự; kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ.

Phần thứ sáu: Điều khoản thi hành

Phần này gồm có 3 Điều (từ Điều 220 đến Điều 222), quy định về điều khoản chuyển tiếp; hiệu lực thi hành; hướng dẫn thi hành.

 

IV. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ

1. Quy định chung

1.1. Các đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ

Theo quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ trước đây, các đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ bao gồm: (i) quyền tác giả (đối với tác phẩm) và các quyền liên quan (đối với chương trình biểu diễn, ghi âm, phát thanh truyền hình); (ii) sáng chế; (iii) giải pháp hữu ích (bao gồm cả mẫu hữu ích); (iv) kiểu dáng công nghiệp; (v) nhãn hiệu hàng hoá (gồm cả nhãn hiệu dịch vụ); (vi) chỉ dẫn địa lý hàng hoá (gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hoá); (vii) tên thương mại; (viii) bí mật kinh doanh; (ix) quyền chống cạnh tranh không lành mạnh; (x) thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn; và (xi) giống cây trồng. So với yêu cầu của quốc tế, pháp luật của Việt Nam hiện nay đã bảo hộ gần như đầy đủ các đối tượng sở hữu trí tuệ, chỉ còn thiếu tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá theo yêu cầu của Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ.

Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung quy định việc bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá với danh nghĩa đối tượng quyền liên quan (đến quyền tác giả) được bảo hộ (Điều 17.3).

1.2. Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) và đối xử tối huệ quốc (MFN)

Pháp luật về sở hữu trí tuệ trước đây hoàn toàn bảo đảm nguyên tắc đối xử tối huệ quốc giữa các chủ thể nước ngoài và bảo đảm nguyên tắc đối xử quốc gia giữa chủ thể nước ngoài với chủ thể Việt Nam, theo đó cá nhân, pháp nhân nước ngoài được hưởng mọi quyền và chịu mọi nghĩa vụ như đối với chủ thể Việt Nam. Ngoại lệ duy nhất về NT (yêu cầu người nước ngoài không thường trú tại Việt Nam phải nộp đơn đăng ký sở hữu công nghiệp thông qua tổ chức dịch vụ đại diện về sở hữu công nghiệp) là ngoại lệ được TRIPS cho phép.

Luật Sở hữu trí tuệ đã kế thừa các quy định trước đây nhằm hoàn toàn bảo đảm nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc (Điều 2).

1.3. Quyền ưu tiên

Quy định pháp luật trước đây về quyền ưu tiên của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với yêu cầu quốc tế, điển hình là Công ước Pari. Tuy nhiên, còn thiếu quy định về quyền yêu cầu hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn đầu tiên được nộp tại Việt Nam, nhằm tạo sự công bằng giữa người có đơn đầu tiên nộp trong nước (thường là người Việt Nam) và người có đơn đầu tiên nộp ở nước ngoài (thường là người nước ngoài). Quy định về quyền ưu tiên đối với đơn tên gọi xuất  xứ hàng hoá trong Bộ luật Dân sự không phù hợp với các quy định dưới luật vì quyền đối với tên gọi xuất xứ hàng hoá không mang tính độc quyền.

Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung quy định về quyền ưu tiên trên cơ sở đơn đầu tiên được nộp tại Việt Nam (Điều 91), đồng thời bãi bỏ quy định về quyền ưu tiên đối với đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý (bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hoá).

1.4. Các vấn đề chung khác

Ngoài những vấn đề nêu trên, Luật Sở hữu trí tuệ còn quy định những vấn đề có tính nguyên tắc chung, chi phối toàn bộ nội dung của đạo luật, bao gồm: phạm vi điều chỉnh (Điều 1); đối tượng áp dụng (Điều 2); giải thích từ ngữ (Điều 4); nguyên tắc áp dụng pháp luật (Điều 5); căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ (Điều 6); giới hạn quyền sở hữu trí tuệ (Điều 7); chính sách của Nhà nước về sở hữu trí tuệ (Điều 8); quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (Điều 9); nội dung quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ (Điều 10); trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về sở hữu trí tuệ (Điều 11) và phí và lệ phí về sở hữu trí tuệ (Điều 12). 

Về trách nhiệm quản lý nhà nước, Luật Sở hữu trí tuệ xác định rõ chức năng quan trọng của Bộ Khoa học và Công nghệ, đó là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với các bộ, các cơ quan có liên quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và thực hiện quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp (Điều 11.2). 

2. Quyền tác giả và quyền liên quan

2.1. Đối tượng và điều kiện bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về đối tượng và điều kiện bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan đã cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, còn thiếu quy định cụ thể về bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính và sưu tập dữ liệu với danh nghĩa một đối tượng quyền tác giả được bảo hộ.

Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa quy định trước đây về đối tượng bảo hộ quyền tác giả (Điều 3.1, Điều 4.2, Điều 13, Điều 14, Điều 15) và quyền liên quan (Điều 3.1, Điều 4.3, Điều 16, Điều 17), đồng thời dành riêng một Điều (Điều 22) quy định về việc bảo hộ quyền tác giả đối với chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu phù hợp với Hiệp định TRIPS.

2.2. Nội dung và giới hạn quyền

Quy định pháp luật trước đây về nội dung và giới hạn quyền tác giả đã cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, còn thiếu quy định cụ thể về nội dung và giới hạn của một số quyền liên quan (chẳng hạn quyền của tổ chức phát sóng). Đồng thời, quy định trước đây về nội dung và giới hạn quyền tác giả và các quyền liên quan không thực sự phù hợp với tinh thần của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Công ước Berne, không hoàn toàn phù hợp với các hoạt động phi thương mại và thực tế sáng tác phục vụ công chúng ở nước ta.

Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung một loạt quy định cụ thể về nội dung và giới hạn quyền tác giả (từ Điều 18 đến Điều 26, Điều 28), nội dung và giới hạn các quyền liên quan (từ Điều 29 đến Điều 33, Điều 35), trong đó quy định cụ thể các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép, và các hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan.

 

2.3. Phát sinh quyền

Quy định pháp luật trước đây về nguyên tắc phát sinh quyền tác giả và các quyền liên quan hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ đã kế thừa quy định pháp luật trước đây và quy định rõ căn cứ phát sinh quyền tác giả (Điều 6.1) và quyền liên quan (Điều 6.2), cụ thể là quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất l­ượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay ch­ưa công bố, đã đăng ký hay ch­ưa đăng ký; quyền liên quan phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chư­ơng trình được mã hoá được định hình hoặc thực hiện mà không gây ph­ương hại đến quyền tác giả.

2.4. Thời hạn bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về thời hạn bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan đã cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, còn thiếu quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả không tính theo đời người.

Luật Sở hữu trí tuệ đã kế thừa quy định trước đây về thời hạn bảo hộ quyền tác giả (Điều 27), đồng thời bổ sung quy định cụ thể về thời hạn bảo hộ quyền tác giả (quyền nhân thân) không tính theo đời người đối với một số loại hình tác phẩm như điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh (Điều 27.2) và thời hạn bảo hộ quyền liên quan của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình và tổ chức phát sóng (Điều 34).

3. Sáng chế

3.1. Đối tượng và điều kiện bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về đối tượng và điều kiện bảo hộ với danh nghĩa sáng chế (bao gồm giải pháp hữu ích) đã cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế. Mặc dù việc quy định hệ thống bảo hộ giải pháp hữu ích với yêu cầu về tính sáng tạo thấp hơn là nhằm khuyến khích hoạt động sáng tạo của người Việt Nam do trình độ công nghệ của Việt Nam chưa đạt đến yêu cầu về trình độ sáng tạo của sáng chế, đa số Bằng độc quyền sáng chế cấp tại Việt Nam thuộc về người nước ngoài, tuy nhiên việc sử dụng khái niệm sáng chế và giải pháp hữu ích gắn với điều kiện để được bảo hộ như trong pháp luật trước đây là không chính xác, không thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế và gây bất cập trong thực tiễn thi hành.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa quy định về đối tượng và điều kiện bảo hộ đối với các thành tựu sáng tạo kỹ thuật, đó là sáng chế, giải pháp hữu ích (Điều 4.12, Điều 58, Điều 59). Tuy nhiên, vì giải pháp hữu ích là một dạng đặc biệt của sáng chế (đều là giải pháp kỹ thuật), chỉ khác biệt ở điều kiện để được bảo hộ (mức độ sáng tạo thấp hơn) và chế độ bảo hộ đối với các đối tượng này hầu như như nhau, chỉ khác biệt ở thời hạn bảo hộ (ngắn hơn), do đó để làm rõ bản chất của cơ chế bảo hộ, Luật Sở hữu trí tuệ không đưa thêm khái niệm giải pháp hữu ích nữa, mà quy định gộp hai đối tượng này dưới danh nghĩa sáng chế (giải pháp kỹ thuật) và có quy định về một loại Bằng độc quyền sáng chế đặc biệt mang tên là Bằng độc quyền giải pháp hữu ích (Điều 58.2) dành cho loại sáng chế đặc biệt (có mức độ sáng tạo thấp hơn) theo mô hình của các nước có bảo hộ đối tượng này để loại bỏ hoàn toàn thuật ngữ giải pháp hữu ích (không được định nghĩa trong Luật). Để được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền sáng chế, sáng chế phải có tính mới, có trình độ sáng tạo, và có khả năng áp dụng công nghiệp. Sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu không phải là hiểu biết thông thường và phải có tính mới và có khả năng áp dụng công nghiệp (Điều 58).

Luật Sở hữu trí tuệ cũng sửa đổi thêm một số quy định sau đây cho phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế: đối tượng loại trừ bảo hộ với danh nghĩa sáng chế (không loại trừ thiết kế bố trí vi mạch bán dẫn vì đối tượng này cũng là một loại giải pháp kỹ thuật – Điều 59), điều kiện về tính mới của sáng chế (sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được công bố trong một số trường hợp nhất định, kể cả trường hợp công bố tại triển lãm – Điều 60.3).

3.2. Nội dung và giới hạn quyền

Quy định pháp luật trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với sáng chế cơ bản phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, còn thiếu quy định về quyền sử dụng sáng chế nhân danh Nhà nước – quy định được coi là biện pháp tự vệ, nhằm bảo vệ lợi ích xã hội trước sự lạm dụng độc quyền của chủ Bằng độc quyền sáng chế (thường là người nước ngoài), bảo vệ lợi ích quốc gia trước sức ép của các cường quốc. Các quy định về li-xăng không tự nguyện vốn cũng được coi là một trong các biện pháp tự vệ chưa thực sự thắt chặt nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu xã hội, buộc chủ sở hữu sáng chế phải đưa công nghệ mới vào Việt Nam, khuyến khích phát triển sản xuất, dịch vụ trong nước. Đồng thời, còn thiếu một số điều kiện cụ thể đối với việc cấp li-xăng không tự nguyện để bảo đảm tuân thủ Hiệp định TRIPS.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa quy định trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với sáng chế, cụ thể là quy định về chủ sở hữu sáng chế (Điều 121.1), tác giả và quyền của tác giả sáng chế (Điều 122), quyền của chủ sở hữu sáng chế (Điều 123, Điều 124, Điều 125), hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế (Điều 126), quyền tạm thời đối với sáng chế (Điều 131). Về cơ bản, chủ sở hữu sáng chế có các quyền tài sản sau đây (Điều 123): sử dụng, cho phép người khác sử dụng sáng chế; ngăn cấm người khác sử dụng sáng chế; định đoạt quyền đối với sáng chế. Việc sử dụng sáng chế là việc thực hiện các hành vi sản xuất sản phẩm được bảo hộ; áp dụng quy trình được bảo hộ; khai thác công dụng của sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ; lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ; nhập khẩu sản phẩm được bảo hộ hoặc sản phẩm được sản xuất theo quy trình được bảo hộ (Điều 124.1).

Luật Sở hữu trí tuệ cũng sửa đổi thêm một số quy định sau đây cho phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế, đồng thời vẫn phải bảo đảm tối đa lợi ích quốc gia. Cụ thể là, một loạt quy định nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia và xã hội, đề phòng và khắc phục tình trạng lạm dụng cơ chế bảo hộ, đặc biệt là những nội dung “nhạy cảm” liên quan tới việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, đã được thể hiện trong Luật dưới hình thức quy định về các giải pháp nhằm hạn chế độc quyền của người nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ trong các trường hợp cụ thể: cho phép nhập khẩu song song (Điều 125.2.b), hạn chế quyền của chủ sở hữu công nghiệp (Điều 132), bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế (từ Điều 145 đến Điều 147), sử dụng sáng chế nhân danh Nhà nước (Điều 133).

 Đối với các quy định về điều kiện bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế (cấp li-xăng bắt buộc), Luật Sở hữu trí tuệ đã khắc phục nhược điểm của pháp luật trước đây để đáp ứng đòi hỏi quốc tế, đặc biệt là Hiệp định TRIPS, đồng thời tận dụng triệt để các khả năng quy định “mềm dẻo” để bảo vệ lợi ích xã hội, trong đó có vấn đề dân sinh (không chỉ dược phẩm, mà còn thực phẩm, môi trường…), an ninh, quốc phòng và các tình huống khẩn cấp khác. Cụ thể là, Luật Sở hữu trí tuệ dành hẳn một mục riêng quy định về bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế, trong đó có các quy định về căn cứ bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế (Điều 145) phù hợp với Hiệp định TRIPS, quy định hạn chế li-xăng bắt buộc trong phạm vi sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và không được xuất khẩu (Điều 146.1.b), quy định về nghĩa vụ cho phép sử dụng sáng chế cơ bản nhằm sử dụng sáng chế phụ thuộc (Điều 137), và quy định trao thẩm quyền cấp li-xăng bắt buộc cho các Bộ quản lý ngành (trên cơ sở tham khảo ý kiến của Bộ Khoa học và Công nghệ) nhằm tạo điều kiện thực hiện thẩm quyền này một cách nhanh chóng, linh hoạt để không những phát triển ngành sản xuất trong nước mà còn ứng phó kịp thời trong các trường hợp khẩn cấp (Điều 147.1). Đồng thời, Luật Sở hữu trí tuệ cũng thể hiện tinh thần của điều khoản Bolar (việc sản xuất thử và các hành vi sử dụng sáng chế không nhằm mục đích thương mại không bị coi là xâm phạm quyền của chủ Bằng độc quyền sáng chế) nhằm bảo đảm chăm sóc sức khoẻ cộng đồng với các quy định về việc cho phép sản xuất thử và cấp đăng ký sớm để bảo đảm có thể sản xuất, lưu hành thuốc ngay khi hết thời hạn bảo hộ (Điều 125.2.a).

3.3. Xác lập quyền

Quy định pháp luật trước đây về thủ tục xác lập quyền đối với sáng chế đã cơ bản phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, quy định lấy ngày nộp đơn làm mốc để xác định quyền sử dụng trước chưa thực sự tạo ra sự cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu với người độc lập nghiên cứu triển khai, vì chủ sở hữu có quyền tạm thời từ thời điểm công bố đơn và có thể yêu cầu công bố đơn vào thời điểm bất kỳ, trong khi nhà nghiên cứu triển khai độc lập cần có quyền được tiếp tục sử dụng đối tượng trước thời điểm công bố đơn (đối tượng nêu trong đơn chỉ bị coi là đã biết đến khi đơn được công bố). Ngoài ra, pháp luật trước đây về xác lập quyền đối với sáng chế còn thiếu một số quy định sau đây: quy định về căn cứ đình chỉ hiệu lực bằng độc quyền sáng chế, đó là khi chủ sở hữu không còn tồn tại mà không có người kế thừa hợp pháp, trong khi mới chỉ có quy định tương ứng cho nhãn hiệu và tên gọi xuất xứ hàng hoá; còn thiếu quy định về việc thẩm định lại đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp yêu cầu thu hẹp phạm vi bảo hộ, nhằm bảo đảm không làm thay đổi bản chất của đối tượng nêu trong đơn. Một số quy định trước đây cũng không hợp lý, cụ thể là quy định về việc huỷ bỏ hiệu lực bằng độc quyền sáng chế trong trường hợp bằng độc quyền ghi nhận sai tác giả do sự cố ý của người nộp đơn không hợp lý, vì nếu theo quy định này, tác giả sẽ bị mất quyền của mình; đồng thời quy định trình tự xử lý yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực theo trình tự như trình tự xử lý đơn khiếu nại gây ra sự nhầm lẫn về hai thủ tục này; quy định về tình trạng kỹ thuật để đánh giá tính mới bao gồm các đơn nộp sớm hơn nhưng công bố muộn hơn không phản ánh đúng bản chất “đã biết” (việc không cấp patent cho những giải pháp kỹ thuật trong các đơn nộp sớm hơn mang bản chất của nguyên tắc “nộp đơn đầu tiên”, có thể được bảo đảm bằng quy định trong trình tự thẩm định đơn), không bảo đảm nguyên tắc tình trạng kỹ thuật đối với tính mới và tính sáng tạo phải như nhau.

Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa quy định trước đây về xác lập quyền đối với sáng chế, trong đó khẳng định nguyên tắc quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này (Điều 6.3.a).

Luật Sở hữu trí tuệ đã khắc phục tất cả các nhược điểm nêu trên của quy định pháp luật trước đây, phù hợp với thực tiễn và với thông lệ quốc tế. Cụ thể là, Luật Sở hữu trí tuệ quy định lấy ngày công bố đơn đăng ký sáng chế làm mốc để xác định quyền sử dụng trước (Điều 134), bổ sung quy định về căn cứ đình chỉ hiệu lực bằng độc quyền sáng chế khi chủ sở hữu không còn tồn tại mà không có người kế thừa hợp pháp (Điều 95.1.c), bổ sung quy định về việc thẩm định lại đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp yêu cầu thu hẹp phạm vi bảo hộ (Điều 119.3), bãi bỏ quy định huỷ bỏ hiệu lực bằng độc quyền sáng chế trong trường hợp bằng độc quyền ghi nhận sai tác giả do sự cố ý của người nộp đơn (Điều 117.1), bãi bỏ quy định xử lý yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực theo trình tự như trình tự xử lý đơn khiếu nại và thay thế bằng thủ tục phản đối đơn (Điều 117.4), sửa đổi quy định về tình trạng kỹ thuật để đánh giá tính mới (Điều 60.1) cho phù hợp với thông lệ quốc tế.

3.4. Thời hạn bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về thời hạn bảo hộ sáng chế phù hợp với thực tiễn pháp luật của quốc tế.

Luật Sở hữu trí tuệ đã kế thừa quy định trước đây về thời hạn bảo hộ sáng chế, cụ thể là bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết hai mươi năm kể từ ngày nộp đơn, bằng độc quyền giải pháp hữu ích có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn (Điều 93.2, Điều 93.3).

4. Kiểu dáng công nghiệp

4.1. Đối tượng và điều kiện bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về đối tượng, điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đã phù hợp với pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, điều kiện về tính sáng tạo của kiểu dáng công nghiệp không được quy định trực tiếp như một trong những điều kiện bảo hộ bắt buộc (như đối với sáng chế) mà được quy định gián tiếp thông qua đối tượng bị loại trừ không được bảo hộ, chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ đã cơ bản kế thừa quy định trước đây về đối tượng và điều kiện bảo hộ kiểu dáng công nghiệp (Điều 4.13, Điều 63, Điều 64), đồng thời quy định rõ ràng một trong những điều kiện bảo hộ bắt buộc đối với kiểu dáng công nghiệp là tính sáng tạo (Điều 63.2, Điều 66). Để được bảo hộ kiểu dáng công nghiệp phải có tính mới, có tính sáng tạo, và có khả năng áp dụng công nghiệp.

·                    Ngoài ra, cũng như đối với sáng chế, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi thêm quy định sau đây cho phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế: điều kiện về tính mới của kiểu dáng công nghiệp (kiểu dáng công nghiệp không bị coi là mất tính mới nếu được công bố trong một số trường hợp nhất định, kể cả trường hợp công bố tại triển lãm – Điều 65.4).

4.2. Nội dung và giới hạn quyền

Quy định pháp luật trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với kiểu dáng công nghiệp đã phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa các quy định pháp luật trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với kiểu dáng công nghiệp, cụ thể là quy định về chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp (Điều 121.1), tác giả và quyền của tác giả kiểu dáng công nghiệp (Điều 122), quyền của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp (Điều 123, Điều 124, Điều 125), hành vi xâm phạm quyền đối với kiểu dáng công nghiệp (Điều 126), quyền tạm thời đối với kiểu dáng công nghiệp (Điều 131). Về cơ bản, chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp có các quyền tài sản sau đây (Điều 123): sử dụng, cho phép người khác sử dụng kiểu dáng công nghiệp; ngăn cấm người khác sử dụng kiểu dáng công nghiệp; định đoạt quyền đối với kiểu dáng công nghiệp. Việc sử dụng kiểu dáng công nghiệp  là việc thực hiện các hành vi sau đây (Điều 124.2): sản xuất sản phẩm có hình dáng bên ngoài là kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ; lưu thông, quảng cáo, chào hàng, tàng trữ để lưu thông sản phẩm đó; nhập khẩu sản phẩm đó.

4.3. Xác lập quyền

Quy định pháp luật trước đây về thủ tục xác lập quyền đối với kiểu dáng công nghiệp đã phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, cũng như đối với sáng chế, quy định pháp luật trước đây về kiểu dáng công nghiệp còn thiếu một số quy định sau đây: quy định về căn cứ đình chỉ hiệu lực bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp khi chủ sở hữu không còn tồn tại mà không có người kế thừa hợp pháp; quy định về việc thẩm định lại kiểu dáng công nghiệp trong trường hợp yêu cầu thu hẹp phạm vi bảo hộ. Các quy định về việc huỷ bỏ hiệu lực bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp trong trường hợp bằng độc quyền ghi nhận sai tác giả do sự cố ý của người nộp đơn không hợp lý, quy định trình tự xử lý yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực theo trình tự như trình tự xử lý đơn khiếu nại gây ra sự nhầm lẫn về hai thủ tục này.

Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa quy định trước đây về xác lập quyền đối với kiểu dáng công nghiệp, trong đó khẳng định nguyên tắc quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này (Điều 6.3.a).

Đồng thời, Luật Sở hữu trí tuệ đã khắc phục tất cả các nhược điểm nêu trên của quy định pháp luật trước đây, phù hợp với thực tiễn và với thông lệ quốc tế. Cụ thể là, Luật Sở hữu trí tuệ quy định lấy ngày công bố đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp làm mốc để xác định quyền sử dụng trước (Điều 134), bổ sung quy định về căn cứ đình chỉ hiệu lực bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp khi chủ sở hữu không còn tồn tại mà không có người kế thừa hợp pháp (Điều 95.1.c), bổ sung quy định về việc thẩm định lại đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp yêu cầu thu hẹp phạm vi bảo hộ (Điều 119.3), bãi bỏ quy định huỷ bỏ hiệu lực bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp trong trường hợp bằng độc quyền ghi nhận sai tác giả do sự cố ý của người nộp đơn (Điều 117.1), bãi bỏ quy định xử lý yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực theo trình tự như trình tự xử lý đơn khiếu nại và thay thế bằng thủ tục phản đối đơn (Điều 117.4).

 

4.4. Thời hạn bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về thời hạn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp đã phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS.

Luật Sở hữu trí tuệ đã kế thừa quy định pháp luật trước đây về thời hạn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, cụ thể là bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp có hiệu lực từ ngày cấp và kéo dài đến hết năm năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn hai lần liên tiếp, mỗi lần năm năm (Điều 93.4).

5.Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn

5.1. Đối tượng và điều kiện bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về đối tượng, điều kiện bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn đã phù hợp với các yêu cầu của pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS. 

·                    Luật Sở hữu trí tuệ đã kế thừa quy định trước đây về đối tượng và điều kiện bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (Điều 4.14, Điều 4.15, Điều 68, Điều 69), theo đó đối tượng bảo hộ chỉ giới hạn ở mạch tích hợp bán dẫn, phù hợp với quy định của các điều ước quốc tế và pháp luật của các quốc gia, cơ chế bảo hộ riêng biệt, độc lập với cơ chế bảo hộ quyền tác giả, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp… Để được bảo hộ, thiết kế bố trí phải có tính nguyên gốc, và có tính mới thương mại (Điều 68).

5.2. Nội dung và giới hạn quyền

Quy định pháp luật trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn đã cơ bản phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, quy định về thời điểm làm phát sinh quyền tạm thời đối với thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là ngày nộp đơn mà không phải là ngày khai thác thương mại lần đầu tiên chưa bảo đảm quyền lợi của chủ sở hữu thiết kế bố trí.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ về cơ bản kế thừa các quy định của pháp luật trước đây, đồng thời sửa đổi quy định về quyền tạm thời của chủ sở hữu (thời điểm làm phát sinh quyền tạm thời là ngày khai thác thương mại lần đầu tiên – Điều 131.2). Về cơ bản, chủ sở hữu thiết kế bố trí có các quyền tài sản sau đây (Điều 123): sử dụng, cho phép người khác sử dụng thiết kế bố trí; ngăn cấm người khác sử dụng thiết kế bố trí; định đoạt quyền đối với thiết kế bố trí. Hành vi sử dụng thiết kế bố trí là việc thực hiện các hành vi sao chép thiết kế bố trí; sản xuất mạch tích hợp bán dẫn theo thiết kế bố trí được bảo hộ; bán, cho thuê, quảng cáo, chào hàng hoặc tàng trữ các bản sao thiết kế bố trí, mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí hoặc hàng hoá chứa mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí được bảo hộ; nhập khẩu bản sao thiết kế bố trí, mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí hoặc hàng hoá chứa mạch tích hợp bán dẫn sản xuất theo thiết kế bố trí được bảo hộ (Điều 124.3).

5.3. Xác lập quyền

Quy định pháp luật trước đây về thủ tục đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn đã cơ bản phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế, chỉ còn thiếu các quy định chi tiết về thủ tục xác lập quyền.

Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa quy định trước đây về xác lập quyền đối với thiết kế bố trí, trong đó khẳng định nguyên tắc quyền sở hữu công nghiệp đối với thiết kế bố trí được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này (Điều 6.3.a).

Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, làm cơ sở để Chính phủ quy định hướng dẫn thi hành .

5.4. Thời hạn bảo hộ

·                    Quy định pháp luật trước đây về thời hạn bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn đã phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ đã kế thừa quy định trước đây về thời hạn bảo hộ thiết kế bố trí, cụ thể là giấy chứng nhận đăng ký thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn có hiệu lực từ ngày cấp và chấm dứt vào ngày sớm nhất trong số những ngày sau đây: kết thúc mười năm kể từ ngày nộp đơn; kết thúc mười năm kể từ ngày thiết kế bố trí được người có quyền đăng ký hoặc người được người đó cho phép khai thác thương mại lần đầu tiên tại bất kỳ nơi nào trên thế giới; kết thúc mười lăm năm kể từ ngày tạo ra thiết kế bố trí (Điều 93.5).

6. Bí mật kinh doanh

6.1. Đối tượng và điều kiện bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về đối tượng, điều kiện bảo hộ bí mật kinh doanh đã gần như phù hợp với yêu cầu của các điều ước quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ đã kế thừa quy định trước đây về đối tượng và điều kiện bảo hộ bí mật kinh doanh (Điều 84, Điều 85). Để được bảo hộ, bí mật kinh doanh phải không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được, khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó, và được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.

6.2. Nội dung và giới hạn quyền

Quy định pháp luật trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với bí mật kinh doanh đã gần như phù hợp với yêu cầu của các điều ước quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành còn thiếu quy định cụ thể về giới hạn quyền của chủ sở hữu bí mật kinh doanh (thiếu quy định cụ thể về hành vi xâm phạm quyền nhằm phân định rõ quyền của chủ sở hữu bí mật kinh doanh và quyền của người không phải là chủ sở hữu bí mật kinh doanh), còn thiếu các quy định về nghĩa vụ bảo mật của cơ quan nhà nước đối với các dữ liệu thử nghiệm trong thủ tục đăng ký lưu hành dược phẩm và nông hoá phẩm và chống người khác sử dụng các dữ liệu bí mật đó theo yêu cầu của Hiệp định TRIPS và BTA.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa quy định trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với bí mật kinh doanh, đồng thời bổ sung quy định về hành vi bị coi là xâm phạm quyền  (bổ sung hành vi bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh dù đã biết hoặc có nghĩa vụ phải biết bí mật kinh doanh đó do người khác thu được một cách bất hợp pháp – Điều 127.1.đ), bổ sung quy định về các hành vi không bị coi là xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh (Điều 125.3), bổ sung quy định về nghĩa vụ bảo mật dữ liệu thử nghiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Điều 128). Về cơ bản, chủ sở hữu bí mật kinh doanh có các quyền tài sản sau đây (Điều 123): sử dụng, cho phép người khác sử dụng bí mật kinh doanh; ngăn cấm người khác sử dụng bí mật kinh doanh; định đoạt quyền đối với bí mật kinh doanh. Việc sử dụng bí mật kinh doanh là việc áp dụng bí mật kinh doanh để sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ, thương mại hàng hoá; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán, nhập khẩu sản phẩm được sản xuất do áp dụng bí mật kinh doanh (Điều 124.4).

6.3. Xác lập quyền

Quy định pháp luật trước đây về căn cứ xác lập quyền đối với bí mật kinh doanh phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế.

Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa quy định trước đây về xác lập quyền đối với bí mật kinh doanh (Điều 6.3.c), theo đó quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.

6.4. Thời hạn bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về thời hạn bảo hộ bí mật kinh doanh là dữ liệu thử nghiệm chưa thực sự rõ ràng và phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ bổ sung quy định về hạn chế độc quyền dữ liệu thử nghiệm (Điều 128.2), theo đó kể từ khi dữ liệu bí mật trong đơn xin cấp phép được nộp cho cơ quan có thẩm quyền đến hết năm năm kể từ ngày người nộp đơn được cấp phép, cơ quan đó không được cấp phép cho bất kỳ người nào nộp đơn muộn hơn nếu trong đơn sử dụng dữ liệu bí mật nêu trên mà không được sự đồng ý của người nộp dữ liệu đó, trừ trường hợp bộc lộ, sử dụng bí mật kinh doanh được tạo ra một cách độc lập.

7.Giống cây trồng

7.1. Đối tượng và điều kiện bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về đối tượng và điều kiện bảo hộ giống cây trồng phù hợp với pháp luật của các nước trên thế giới và Công ước UPOV.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa các quy định trước đây về đối tượng và điều kiện bảo hộ giống cây trồng (Điều 4.24, Điều 158, Điều 159, Điều 160, Điều 161, Điều 162 và Điều 163). Để được bảo hộ, giống cây trồng phải là giống cây trồng được chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển, thuộc Danh mục loài cây trồng được Nhà nước bảo hộ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành, có tính mới, tính khác biệt, tính đồng nhất, tính ổn định và có tên phù hợp (Điều 158).

7.2. Nội dung và giới hạn quyền

Quy định pháp luật trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với giống cây trồng cơ bản phù hợp với pháp luật của các nước trên thế giới và Công ước UPOV. Tuy nhiên, còn thiếu các quy định về mở rộng quyền của chủ sở hữu giống cây trồng, hạn chế quyền của chủ sở hữu giống cây trồng, và quyền tạm thời đối với giống cây trồng phù hợp với ngoại lệ cho phép của Công ước UPOV.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa các quy định trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với giống cây trồng, đồng thời bổ sung các quy định về việc mở rộng quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng (Điều 187), hạn chế quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng (Điều 190),và quyền tạm thời đối với giống cây trồng (Điều 189). Về cơ bản, chủ bằng bảo hộ có quyền sử dụng hoặc cho phép người khác sử dụng các quyền sau đây liên quan đến vật liệu nhân giống của giống đã được bảo hộ: sản xuất hoặc nhân giống, chế biến nhằm mục đích nhân giống; chào hàng, bán hoặc thực hiện các hoạt động tiếp cận thị trường khác, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu giữ để thực hiện các hành vi kể trên; ngăn cấm người khác sử dụng giống cây trồng; để thừa kế, kế thừa quyền đối với giống cây trồng và chuyển giao quyền đối với giống cây trồng.

7.3. Xác lập quyền

Quy định pháp luật trước đây về thủ tục xác lập quyền đối với giống cây trồng phù hợp với pháp luật của các nước trên thế giới và Công ước UPOV.

Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa các quy định trước đây về thủ tục xác lập quyền đối với giống cây trồng (từ Điều 164 đến Điều 173), trong đó khẳng định nguyên tắc quyền đối với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định cấp bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này (Điều 6.4).

7.4. Thời hạn bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về thời hạn bảo hộ giống cây trồng phù hợp với pháp luật của các nước trên thế giới và Công ước UPOV.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa các quy định trước đây về thời hạn bảo hộ giống cây trồng (Điều 169), theo đó bằng bảo hộ giống cây trồng có hiệu lực kể từ ngày cấp đến hết hai mươi lăm năm đối với giống cây thân gỗ và cây nho; đến hết hai mươi năm đối với các giống cây trồng khác.

8. Nhãn hiệu

8.1. Đối tượng và điều kiện bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về đối tượng và điều kiện bảo hộ nhãn hiệu cơ bản đã phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, còn thiếu quy định chi tiết về một số dạng nhãn hiệu đặc biệt (nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận), các tiêu chí được xem xét để công nhận một nhãn hiệu là nổi tiếng. Ngoài ra, trong thực tiễn thuật ngữ “nhãn hiệu hàng hoá” dễ gây hiểu lầm không bao gồm nhãn hiệu dịch vụ và nhầm lẫn với thuật ngữ nhãn hàng hoá (êtikét).

·                    Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa quy định trước đây về đối tượng và điều kiện bảo hộ nhãn hiệu (Điều 4.16, Điều 72, Điều 73, Điều 74), đồng thời bổ sung một loạt khái niệm về nhãn hiệu tập thể (Điều 4.17), nhãn hiệu chứng nhận (Điều 4.18) và quy định về tiêu chí đánh giá nhãn hiệu nổi tiếng (Điều 75). Về thuật ngữ, Luật Sở hữu trí tuệ đã sử dụng thuật ngữ “nhãn hiệu” thay thế cho “nhãn hiệu hàng hoá” theo quy định trước đây. Để được bảo hộ, nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc; và có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác (Điều 72).

8.2. Nội dung và giới hạn quyền

Quy định pháp luật trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với nhãn hiệu cơ bản đã phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, còn thiếu các quy định cụ thể nhằm giải quyết xung đột quyền giữa nhãn hiệu với chỉ dẫn địa lý trong thực tiễn.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa các quy định trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với nhãn hiệu. Về cơ bản, chủ sở hữu nhãn hiệu có các quyền tài sản sau đây (Điều 123): sử dụng, cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu; ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu; định đoạt quyền đối với nhãn hiệu. Việc sử dụng nhãn hiệu là việc gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ; nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ (Điều 124.5).

 Đồng thời, Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung hàng loạt quy định nhằm giải quyết xung đột quyền giữa nhãn hiệu với chỉ dẫn địa lý, phù hợp với thông lệ quốc tế và phán quyết của WTO năm 2005 về vấn đề này (Điều 74.2.đ, Điều 74.2.l, Điều 74.2.m).

8.3. Xác lập quyền

Quy định pháp luật trước đây về thủ tục đăng ký nhãn hiệu cơ bản đã phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, các quy định về thời hạn đăng ký nhãn hiệu chưa được sửa đổi phù hợp xu hướng rút ngắn thời hạn đăng ký các đối tượng sở hữu công nghiệp khác (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp) tạo ra rào cản về thời gian cho doanh nghiệp trong thủ tục đăng ký nhãn hiệu.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa các quy định trước đây về xác lập quyền đối với nhãn hiệu, trong đó khẳng định nguyên tắc quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký (Điều 6.3.a).

Đồng thời, Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung quy định rút ngắn thời hạn xử lý đơn đăng ký nhãn hiệu so với trước đây (Điều 119), theo đó thời hạn thẩm định hình thức là một tháng (rút bớt hai tháng), thời hạn thẩm định nội dung là sáu tháng (rút bớt ba tháng).

8.4. Thời hạn bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về thời hạn bảo hộ nhãn hiệu đã phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa quy định trước đây về thời hạn bảo hộ nhãn hiệu (Điều 93.6), theo đó giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu có hiệu lực từ ngày cấp đến hết mười năm kể từ ngày nộp đơn, có thể gia hạn nhiều lần liên tiếp, mỗi lần mười năm.

9. Chỉ dẫn địa lý

9.1. Đối tượng và điều kiện bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về đối tượng và tiêu chuẩn bảo hộ chỉ dẫn địa lý, bao gồm tên gọi xuất xứ hàng hoá đã phù hợp tập quán và pháp luật của quốc tế và với các yêu cầu của Hiệp định TRIPS, tuy nhiên nguyên tắc xác lập quyền trên cơ sở đăng ký đối với mọi loại chỉ dẫn địa lý (bao gồm tên gọi xuất xứ hàng hoá) còn chưa thống nhất. Nguyên tắc tự động xác lập quyền đối với các chỉ dẫn địa lý không phải là tên gọi xuất xứ hàng hoá chưa thực sự phù hợp với thực tế, vì cơ chế bảo hộ cho tất cả các loại chỉ dẫn địa lý (kể cả tên gọi xuất xứ hàng hoá) theo nguyên tắc đăng ký xác lập quyền đã chứng tỏ có hiệu quả và thuận lợi cho việc thực thi quyền đối với chỉ dẫn địa lý. Đồng thời chưa có quy định mở ra khả năng bảo hộ chỉ dẫn địa lý dưới dạng nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận phù hợp với nhu cầu thực tiễn hiện nay.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ không phân biệt bảo hộ chỉ dẫn địa lý với tên gọi xuất xứ hàng hoá và gọi chung hai đối tượng này là chỉ dẫn địa lý (dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể – Điều 4.22), đồng thời quy định các điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý (từ Điều 79 đến Điều 83), đó là sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý phải có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý; và sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung quy định cho phép bảo hộ chỉ dẫn địa lý dưới dạng nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận (Điều 74.2.đ), đó là những dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận.

9.2. Nội dung và giới hạn quyền

Quy định pháp luật trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với chỉ dẫn địa lý, bao gồm tên gọi xuất xứ hàng hoá, đã cơ bản phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, pháp luật trước đây chưa xác định rõ ràng chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam, đồng thời còn thiếu quy định cụ thể về việc xác định và công nhận tính chất đặc thù của sản phẩm và hoạt động quản lý tập thể đối với chỉ dẫn địa lý, đặc biệt là các quy định về cơ chế kiểm soát năng lực và sản phẩm của các chủ thể sử dụng chỉ dẫn địa lý được thực hiện bởi tổ chức quản lý tập thể đối với chỉ dẫn địa lý (mô hình đang được áp dụng rất thành công tại các nước châu Âu), do đó việc thẩm định các tiêu chí về đặc trưng chất lượng và quản lý chất lượng các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Quy định pháp luật trước đây cũng chưa giải quyết thực sự thoả đáng xung đột quyền giữa chỉ dẫn địa lý với nhãn hiệu.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa quy định trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với chỉ dẫn địa lý. Luật Sở hữu trí tuệ đã xác định chủ sở hữu chỉ dẫn địa lý của Việt Nam là Nhà nước, đồng thời xác định quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý thuộc về tổ chức, cá nhân tiến hành việc sản xuất sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý tại địa phương tương ứng và đưa sản phẩm đó ra thị trường, và quyền quản lý chỉ dẫn địa lý thuộc về Nhà nước hoặc tổ chức đại diện quyền lợi của tất cả các tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý (Điều 121.4). Việc sử dụng chỉ dẫn địa lý là việc gắn chỉ dẫn địa lý được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; lưu thông, chào bán, quảng cáo nhằm để bán, tàng trữ để bán hàng hoá có mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ; nhập khẩu hàng hoá có mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ (Điều 124.7).

·                    Đặc biệt, Luật Sở hữu trí tuệ có hàng loạt quy định giải quyết thoả đáng xung đột thực tiễn giữa quyền đối với nhãn hiệu và quyền đối với chỉ dẫn địa lý, phù hợp với phán quyết năm 2005 của WTO. Theo nguyên tắc bảo đảm lợi ích của cộng đồng và coi chỉ dẫn địa lý là tài sản quốc gia, Luật Sở hữu trí tuệ dành ưu tiên cho chỉ dẫn địa lý nếu xảy ra xung đột với nhãn hiệu. Theo đó, khi đăng ký một nhãn hiệu sẽ phải kiểm tra để loại trừ khả năng nhãn hiệu gây nhầm lẫn hoặc lừa dối về nguồn gốc địa lý của hàng hoá (Điều 74.2.đ, Điều 74.2.l, Điều 74.2.m), do đó một nhãn hiệu đang được bảo hộ có thể bị chấm dứt hiệu lực với lý do nhãn hiệu đó gây nhầm lẫn hoặc lừa dối về nguồn gốc địa lý. Bên cạnh đó, những chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đang được bảo hộ, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó được thực hiện thì sẽ gây nhầm lẫn về nguồn gốc của sản phẩm, thì chỉ dẫn địa lý đó không được bảo hộ (Điều 80.3).

·                    Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ (Điều 123.2), tổ chức, cá nhân được Nhà nước trao quyền sử dụng, quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có các quyền sau đây: tổ chức được trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có quyền cho phép người khác sử dụng chỉ dẫn địa lý đó; tổ chức, cá nhân được trao quyền sử dụng hoặc tổ chức được trao quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có quyền ngăn cấm người khác sử dụng chỉ dẫn địa lý đó. Sử dụng chỉ dẫn địa lý là việc thực hiện các hành vi (Điều 124.7): gắn chỉ dẫn địa lý được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; lưu thông, chào bán, quảng cáo nhằm để bán, tàng trữ để bán hàng hoá có mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ; nhập khẩu hàng hoá có mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ.

9.3. Xác lập quyền

Quy định pháp luật trước đây về xác lập quyền đối với chỉ dẫn địa lý, bao gồm tên gọi xuất xứ hàng hoá, đã phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, còn thiếu quy định cụ thể về thủ tục công nhận tính chất đặc thù của sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý.

Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa quy định trước đây về xác lập quyền đối với chỉ dẫn địa lý (tên gọi xuất xứ hàng hoá), trong đó khẳng định nguyên tắc chỉ dẫn địa lý chỉ được bảo hộ tại Việt nam khi đã tiến hành thủ tục đăng ký xác lập quyền tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được chấp nhận bảo hộ (Điều 6.3.a), đồng thời quy định cụ thể các yêu cầu đối với đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý (Điều 106) và thủ tục xử lý đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý (từ Điều 108 đến Điều 119), làm cơ sở cho các văn bản hướng dẫn chi tiết thủ tục đăng ký chỉ dẫn địa lý.

9.4. Thời hạn bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về thời hạn bảo hộ chỉ dẫn địa lý (bao gồm tên gọi xuất xứ hàng hoá) đã phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa quy định trước đây về thời hạn bảo hộ chỉ dẫn địa lý (Điều 93.7), theo đó giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý có hiệu lực vô thời hạn kể từ ngày cấp.

10.Tên thương mại

10.1. Đối tượng và điều kiện bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về đối tượng và điều kiện bảo hộ tên thương mại đã phù hợp với các yêu cầu của các điều ước quốc tế (Công ước Pari).

·                    Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa quy định trước đây về đối tượng và điều kiện bảo hộ tên thương mại, theo đó tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh (khu vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh tiếng) – Điều 4.21. Tên thương mại được bảo hộ nếu có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên thương mại đó với chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh (Điều 76 đến Điều 78).

10.2. Nội dung và giới hạn quyền

Quy định pháp luật trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với tên thương mại đã phù hợp với các yêu cầu của các điều ước quốc tế (Công ước Pari). Tuy nhiên, còn thiếu quy định nhằm giải quyết xung đột quyền giữa tên thương mại với nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý được đăng ký trước.

·                    Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa quy định trước đây về nội dung và giới hạn quyền đối với tên thương mại. Chủ sở hữu tên thương mại có các quyền tài sản sau đây (Điều 123.1): sử dụng, cho phép người khác sử dụng tên thương mại; ngăn cấm người khác sử dụng tên thương mại; định đoạt quyền đối với tên thương mại. Trong đó, sử dụng tên thương mại là việc thực hiện hành vi nhằm mục đích thương mại bằng cách dùng tên thương mại để xưng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện tên thương mại trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hoá, bao bì hàng hoá và phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo (Điều 124.6).

·                    Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung quy định nhằm giải quyết xung đột quyền giữa tên thương mại với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ trước. Cụ thể là, tên thương mại không được bảo hộ nếu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc với chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử dụng (Điều 78.3).

10.3. Xác lập quyền

Quy định pháp luật trước đây về xác lập quyền đối với tên thương mại đã phù hợp với các yêu cầu của các điều ước quốc tế (Công ước Pari).

·                    Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa quy định trước đây về xác lập quyền đối với tên thương mại, cụ thể là quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại chỉ được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó (Điều 6.3.b).

10.4. Thời hạn bảo hộ

Quy định pháp luật trước đây về thời hạn bảo hộ tên thương mại đã phù hợp với các yêu cầu của các điều ước quốc tế (Công ước Pari).

·                    Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa quy định trước đây về thời hạn bảo hộ tên thương mại, cụ thể là tên thương mại được bảo hộ chừng nào vẫn được sử dụng hợp pháp.

11. Chống cạnh tranh không lành mạnh

Quy định pháp luật trước đây về bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh đã phù hợp với  yêu cầu của các điều ước quốc tế (Công ước Pari). Tuy nhiên, ngoài các quy định về chống cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh tranh, trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp còn thiếu quy định cụ thể để tăng tính khả thi nhằm bảo hộ các nhà đầu tư sáng tạo chống cạnh tranh không lành mạnh trên các thành quả sáng tạo. Đồng thời, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh không được định nghĩa một cách cụ thể trong pháp luật về sở hữu công nghiệp, mà chỉ được định nghĩa một cách khái quát, cho nên khó tiên lượng được khả năng vận dụng.

Luật Sở hữu trí tuệ cơ bản kế thừa các quy định trước đây về quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, đồng thời bổ sung một điều khoản nhằm xác định rõ những hành vi bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 130) và biện pháp hành chính để xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 211.3).

12. Hoạt động đại diện cho các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ

Quy định pháp luật trước đây về hoạt động đại diện cho các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể là hoạt động dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp, đã cơ bản phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, trong lĩnh vực quyền tác giả còn thiếu các quy định về hoạt động quản lý tập thể đối với quyền tác giả và các quyền liên quan, do đó chưa thực sự bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và các quyền liên quan. Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, quy định trước đây về điều kiện kinh doanh, hành nghề đại diện sở hữu trí tuệ chưa thực sự mở rộng khả năng tham gia kinh doanh của các loại hình kinh doanh, thành phần kinh tế, hạn chế khả năng hành nghề của các cá nhân, và của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, do đó hạn chế khả năng cung cấp các dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp cho các doanh nghiệp không có điều kiện trực tiếp tiến hành thủ tục đăng ký sở hữu công nghiệp.

Lụât Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã dành hẳn một Chương (Chương VI) quy định về tổ chức đại diện, tư vấn, dịch vụ quyền tác giả và quyền liên quan, trong đó quy định cụ thể về chức năng và nhiệm vụ của tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 56), của tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 57), tạo cơ sở cho việc phát triển hoạt động quản lý tập thể quyền tác giả trong tương lai. Đồng thời, Luật Sở hữu trí tuệ đã mở rộng khả năng tham gia dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp của các doanh nghiệp (mọi loại hình doanh nghiệp đều được tham gia chứ không chỉ giới hạn ở văn phòng Luật sư của LVN Group, công ty luật), kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Điều 154); mở rộng đối tượng được hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp (mọi cá nhân có bằng tốt nghiệp đại học chứ không chỉ giới hạn ở những người tốt nghiệp đại học chuyên ngành kỹ thuật, pháp lý) – Điều 155, do đó tăng cường khả năng cung cấp các dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.

 

13. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

13.1. Quy định chung

Nhìn chung, quy định pháp luật trước đây về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đã cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là chế tài và thủ tục dân sự, không đầy đủ, chưa cụ thể và chồng chéo về nội dung, đặc biệt là còn thiếu quy định về những nguyên tắc cơ bản của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ.

·                    Về nguyên tắc cơ bản của cơ chế bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định tổng quan các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 199), bao gồm các biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự, và các biện pháp khác (biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính) trong trường hợp cần thiết.

Về quyền tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, Luật Sở hữu trí tuệ coi quyền tự bảo vệ của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là quyền quan trọng, xuất phát từ góc độ quyền sở hữu trí tuệ là quyền có tính đặc thù, để quyền này được được pháp luật bảo hộ, đòi hỏi chủ thể quyền cần phải chủ động, tự mình tiến hành các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của chính mình. Vì vậy, nhằm tăng cường hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, Luật Sở hữu trí tuệ nhấn mạnh trách nhiệm của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ trong việc tự bảo vệ quyền của mình bằng các biện pháp thích hợp, không nên chỉ thụ động trông chờ vào sự hỗ trợ của các cơ quan thực thi (Điều 198).

Về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Luật Sở hữu trí tuệ  có quy định (Điều 200) làm cơ sở phân định rõ phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Toà án, Thanh tra, Quản lý thị trường, Hải quan, Công an, Uỷ ban nhân dân các cấp).

Đồng thời, Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung quy định về hoạt động giám định về sở hữu trí tuệ (Điều 201), tạo cơ sở cho việc triển khai hoạt động này nhằm hỗ trợ cho công tác bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện có hiệu quả.

13.2. Biện pháp dân sự

Quy định pháp luật trước đây về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo trình tự dân sự đã cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, quy định về trình tự, thủ tục dân sự trong vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn thiếu cụ thể, chế tài dân sự chỉ được quy định về nguyên tắc trong Bộ luật Dân sự nên khó áp dụng trong thực tiễn. Còn thiếu các quy định quan trọng nhằm bảo đảm thực hiện trình tự dân sự có hiệu quả, như quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng để bảo đảm điều kiện khởi kiện và sự công bằng; quy định về cách xác định thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại trong vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; quy định về hoán đổi nghĩa vụ chứng minh trong trường hợp chủ sáng chế quy trình khởi kiện hành vi sản xuất lưu thông sản phẩm trùng với sản phẩm được sản xuất theo quy trình độc quyền của mình nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ bằng độc quyền sáng chế.

Nhằm tăng cường hiệu quả của công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta, đáp ứng yêu cầu thực tế, tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan nhà nước trong các hoạt động thực thi quyền và nhằm đáp ứng các yêu cầu đặt ra của TRIPS và BTA, Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung các quy định cơ bản sau đây:

Về nghĩa vụ chứng minh, Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định cụ thể hoá các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ của đương sự trong các vụ tranh chấp hoặc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 203). Đặc biệt, Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung quy định về nghĩa vụ chứng minh của bị đơn trong vụ xâm phạm quyền đối với sáng chế sản phẩm mới hoặc sáng chế quy trình (Điều 203.4).

·                    Về các biện pháp chế tài dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ quy định cụ thể các biện pháp dân sự để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 202), bao gồm các biện pháp buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại; buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ.

·                    Về các biện pháp khẩn cấp tạm thời, Luật Sở hữu trí tuệ quy định quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 206, Điều 208) và các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể áp dụng đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện sản xuất, kinh doanh hàng hoá đó (Điều 207), bao gồm thu giữ; kê biên; niêm phong; cấm thay đổi hiện trạng; cấm di chuyển; cấm chuyển dịch quyền sở hữu; và các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác được áp dụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

·                    Đặc biệt là, Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung quy định về nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần, mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra (Điều 204), đồng thời bổ sung quy định về căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 205), tạo cơ sở cho Toà án quyết định trong các vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Hầu hết nội dung nêu trên của Luật Sở hữu trí tuệ là các quy định mới được bổ sung nhằm đáp ứng với yêu cầu của các điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ và khắc phục các điểm bất cập trong quy định pháp luật trước đây về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo trình tự dân sự.

13.3. Biện pháp hành chính và hình sự

Nhìn chung, quy định pháp luật trước đây về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo trình tự hành chính và hình sự cơ bản phù hợp với pháp luật quốc tế, điển hình là Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, còn thiếu các quy định cụ thể về trình tự và thủ tục thực hiện các biện pháp thực thi hành chính và hình sự, do đó khó áp dụng trong thực tiễn. Tổ chức và hoạt động của bộ máy thực thi hành chính cồng kềnh và hoạt động rời rạc, kém hiệu quả.

Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ hành chính hoá và hình sự hoá quan hệ dân sự (các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đều bị coi là hành vi vi phạm hành chính và đều bị coi là tội phạm nếu gây hậu quả nghiêm trọng), bởi vì hành vi xâm phạm quyền có bản chất là xâm phạm tài sản tư hữu. Còn thiếu một số quy định quan trọng nhằm bảo đảm áp dụng trình tự hành chính có hiệu quả, như quy định nguyên tắc phân định các hành vi xâm phạm quyền dân sự với hành vi vi phạm quy định về quản lý nhà nước để có thể giới hạn các hành vi vi phạm hành chính và tội phạm về sở hữu trí tuệ ở các hành vi cố ý xâm phạm, hoặc thậm chí giới hạn ở các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả về sở hữu công nghiệp, hàng sao chép bản quyền trái phép với quy mô thương mại; quy định xác định mức tiền phạt sao cho không thấp hơn lợi nhuận có thể thu được do vi phạm. Đặc biệt là biện pháp xử lý hành chính được quy định đối với mọi hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, không phù hợp với bản chất và mục tiêu của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính là nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, vì vậy, chỉ bảo đảm thi hành luật công (quản lý nhà nước).

Tổ chức và hoạt động của bộ máy thực thi hành chính cồng kềnh và hoạt động rời rạc, chồng chéo, kém hiệu quả. Chức năng xử phạt hành chính thuộc rất nhiều cơ quan (Uỷ ban nhân dân các cấp, Cảnh sát kinh tế, Quản lý thị trường, Hải quan, Thanh tra Khoa học-Công nghệ/Văn hoá-Thông tin), nhưng hoạt động không hiệu quả vì thẩm quyền chồng chéo và không có sự phối hợp thống nhất.

 Về trình tự hành chính và các biện pháp chế tài hành chính, Luật Sở hữu trí tuệ quy định cụ thể về xử lý vi phạm hành chính, đặc biệt là các hành vi xâm phạm bị xử lý, trong đó xác định rõ các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thuộc loại nào thì bị xử lý bằng biện pháp hành chính, biện pháp hình sự (Điều 211). Các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt hành chính bao gồm hành vi thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội; không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mặc dù đã được chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó; sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này; sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể bị xử lý về hành chính theo quy định của Luật Cạnh tranh, hoặc bị xử lý về dân sự theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.

·                    Về các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp ngăn chặn hành chính, Luật Sở hữu trí tuệ quy định tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định tại Điều 211.1 của Luật này bị buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bị áp dụng một trong các hình thức xử phạt chính gồm cảnh cáo; phạt tiền, và tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung gồm tịch thu hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu,  phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ; đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm; ngoài ra, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả (Điều 214).

Nhằm phát huy tác dụng răn đe và trừng phạt đối với những người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị xử phạt hành chính, Luật Sở hữu trí tuệ quy định nâng mức tiền phạt so với trước đây, theo đó mức tiền phạt cần được ấn định ít nhất bằng giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được và nhiều nhất không vượt quá năm lần giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện được (Điều 214.4).

Liên quan tới các biện pháp kiểm soát về sở hữu trí tuệ đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, về cơ bản Luật Sở hữu trí tuệ kế thừa các quy định pháp luật trước đây, trong đó quy định cụ thể các biện pháp kiểm soát về sở hữu trí tuệ đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu cũng như trong thị trường nội địa theo hướng xác định rõ nội dung biện pháp (Điều 216), điều kiện và trình tự thực hiện biện pháp (Điều 217, Điều 218).

Đặc biệt là, Luật Sở hữu trí tuệ đã bổ sung quy định trong trường hợp người yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan có lý do chính đáng thì thời hạn tạm dừng có thể kéo dài, nhưng không được quá 20 ngày, với điều kiện người yêu cầu tạm dừng thủ tục hải quan phải nộp thêm khoản bảo đảm theo quy định. Quy định này là cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ lô hàng bị tạm dừng làm thủ tục hải quan trong trường hợp người có quyềnyêu cầu kéo dài thời hạn tạm dừng thủ tục hải quan không có căn cứ xác đáng. Đồng thời, Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định mang tính nguyên tắc về việc kiểm tra, giám sát để phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm (Điều 219), theo đó khi phát hiện lô hàng có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, cơ quan hải quan thông báo ngay cho người yêu cầu kiểm tra, giám sát. Trong thời hạn 3 ngày làm việc tính từ ngày được thông báo, nếu người yêu cầu kiểm tra, giám sát không có yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan và cơ quan hải quan không quyết định xem xét việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với người xuất khẩu, nhập khẩu lô hàng thì cơ quan hải quan có trách nhiệm tiếp tục làm thủ tục hải quan cho lô hàng đó. Quy định này là cần thiết nhằm tránh sự lạm dụng thủ tục của người yêu cầu  kiểm tra, giám sát và phù hợp với tập quán quốc tế.

Điều 212 Luật sở hữu trí tuệ quy định trong trường hợp cá nhân thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố cấu thành tội phạm thì truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự.

 

V. TỔ CHỨC THI HÀNH LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ

Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ (Điều 221), Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ.

Để thi hành Luật Sở hữu trí tuệ (sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01.07.2006), các văn bản pháp quy về sở hữu công nghiệp sau đây đang được khẩn trương soạn thảo và trình ban hành trước tháng 07.2006:

– Nghịđịnh quy định chi tiết và hướng dn thi hành các quy định về sở hữu công nghiệp và quản lý nhà nước về s hu trí tu trong Lut S hu trí tuệ;

– Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong Luật Sở hữu trí tuệ;

– Các Thông tư hướng dẫn thực hiện các thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn,  nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý; và Thông tư hướng dẫn các thủ tục về đại diện sở hữu công nghiệp.

Bộ Khoa học và Công nghệ với vai trò là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hoá – Thông tin, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, đang khẩn trương phối hợp với các cơ quan hữu quan chuẩn bị các dự thảo Nghị định và các Thông tư nói trên nhằm bảo đảm việc thi hành Luật Sở hữu trí tuệ từ ngày 01.07.2006, cũng như xây dựng và chuẩn bị triển khai kế hoạch tuyên truyền, đào tạo, tập huấn trong phạm vi toàn quốc về nội dung của Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành.

BỘ TƯ PHÁP –  VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ – CỤC SỞ HỮU TRÍ TUỆ