I. sự cần thiết, mục đích, ý nghĩa của việc ban hành Luật thi đua, khen thưởng
Thi đua, khen thưởng là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tỏ quốc. Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm căn cứ pháp lý cho việc thực hiện công tác thi đua, khen thưởng, đề ra những chủ trương, chính sách khen thưởng phù hợp với nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng, khơi dây và phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần hy sinh cao cả của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Các phong trào thi đua luôn gắn liền với quá trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Nhiều phong trào thi đua đã đi vào lịch sử như “ Tuần lễ vàng”, “ Hũ gạo tiết kiệm”, “ Giết giặc lập công”, “ Tiếng hát át tiếng bom”, “ Người tốt việc tốt”, “ Sóng Duyên hải”, “ Gió Đại phong”, “ Cờ Ba nhất”, “ Tiếng trống Bắc Lý”, “ Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”…
Trong giai đoạn mới công tác thi đua, khen thưởng đã góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Hàng loạt phong trào thi đua được phát động “ Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “ Giỏi việc nước đảm việc nhà”,“ Xóa đói giảm nghèo”, “Nông dân sản xuất giỏi”, “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ giữ nước”, “Công an nhân dân học tập và thực hiện tốt 6 điều Bác Hồ dạy”, “ Quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “ Thi đua quyết thắng”, “ Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, “ Đền ơn đáp nghĩa”, “ Thanh niên tình nguyện”… Từ những phong trào thi đua này đã xuất hiện hàng triệu tấm gương điển hình tiên tiến.
Nhiều hình thức khen thưởng phù hợp đã được Nhà nước quy định để biểu dương, tôn vinh công trạng và thành tích của các cá nhân, trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc và xây dựng đất nước từ Giấy khen, Bằng khen, Huy hiệu … đến những hình thức cao hơn như Huy chương, Huân chương, danh hiệu vinh dự nhà nước. Có những hình thức để khen thưởng thường xuyên, đột xuất nhằm động viên kịp thời tinh thần đấu tranh anh dũng của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nhân dân và tinh thần tích cực học tập, lao động, sáng tạo của nhân dân, đồng thời có những hình thức khen thưởng để tổng kết từng giai đoạn cách mạng và phục vụ công tác đối ngoại.
Từ năm 1945 đến nay, đã có trên 12,6 triệu lượt tập thể, cá nhân đã được khen thưởng. Trong đó, có trên 7, 2 triệu lượt đã được tặng thưởng Huân chương và trên 4,5 triệu lượt đã được tặng thưởng Huy chương các loại; trên 52 ngàn trường hợp đã được tặng thưởng các danh hiệu vinh dự nhà nước; 922 ngàn trường hợp đã được tặng thưởng các kỷ niệm chương và bằng có công với nước. Trong 5 năm qua, trung bình mỗi năm các cấp, các ngành đã khen thưởng 350 ngàn Giấy khen và Bằng khen; Thủ tướng Chính phủ tặng 2500 Bằng khen, Chủ tịch nước tặng thưởng 2100 Huân chương Lao động các hạng.
Tuy nhiên, công tác thi đua trong tình hình mới còn nhiều bất cập và hạn chế. Nhận thức về công tác thi đua trong giai đoạn mới, nhất là từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, đã có những nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn về lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý công tác thi đua trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Quá trình triển khai thực hiện của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, sự phối hợp của các thành viên Mặt trận Tổ quốc các cấp trong việc tổ chức phong trào thi đua còn hạn chế, chưa động viên, khuyến khích quần chúng tham gia phong trào mà nặng về biện pháp hành chính, mệnh lệnh đơn thuần. Vì vậy, chưa làm cho thi đua trở thành động lực thúc đẩy việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình.
Công tác khen thưởng chưa bám sát phong trào thi đua, còn mang dáng dấp khen thưởng của cơ chế bao cấp, chậm đổi mới về đối tượng, hình thức, tiêu chuẩn, quy trình thủ tục. Chính sách khen thưởng hiện hành chưa bao quát được các đối tượng của mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân, các loại hình thành tích… dẫn đến khen thưởng thiếu công bằng. Nhiều tiêu chuẩn khen thưởng có nội dung của thời kỳ kháng chiến, chưa phù hợp với tính chất phong trào thi đua của từng ngành, từng địa phương trong giai đoạn hiện nay. Các hình thức khen thưởng hiện hành chủ yếu phục vụ cho hai cuộc kháng chiến nay không còn phù hợp nhưng chưa được thay đổi hoặc bổ sung kịp thời để đáp ứng yêu cầu khen thưởng trong giai đoạn mới.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng hiện hành vừa thừa, vừa thiếu lại không đồng bộ (có 1 Quốc lệnh, 11 Sắc lệnh, 6 Quyết nghị, 5 Pháp lệnh và nhiều Nghị định, Thông tư quy định về công tác khen thưởng) . Các văn bản chủ yếu điều chỉnh lĩnh vực khen thưởng. Một số ít văn bản về thi đua nhưng chủ yếu quy định về công tác tổ chức bộ máy làm công tác thi đua. Mặt khác, các văn bản pháp luật này đã được ban hành từ lâu, nhiều quy định không còn phù hợp với yêu cầu của công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn cánh mạng mới. Do đó, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thi đua, khen thưởng còn bộc lộ những bất cập như: chưa kịp thời, thiếu chính xác, thủ tục còn rườm rà, hạn chế tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương.
Vì vậy, Ngày 26 tháng 11 năm 2003, tại kù họp thứ 4 Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật thi đua, khen thưởng. Việc Quốc hội ban hành Luật thi đua, khen thưởng là cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng; tạo động lực cách mạng lôi cuốn động viên khuyến khích mọi người, mọi nhà, mọi tổ chức phát huy truyền thống yêu nước, tính năng động, sáng tạo vươn lên lập thành tích xuất sắc trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
II. Những quan điểm cơ bản chỉ đạo việc xây dựng luật
Luật thi đua, khen thưởng được xây dựng trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo sau:
Thứ nhất, Luật thi đua, khen thưởng quán triệt và thể chế hoá đường lối chính sách thi đua, khen thưởng của Đảng trong giai đoạn mới, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phấn đấu vì mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh”.
Thứ hai, Luật thi đua, khen thưởng thể hiện được truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là “ Uống nước nhớ nguồn”; phát huy những ưu điểm, kinh nghiệm về công tác thi đua, khen thưởng qua các giai đoạn cách mạng.
Thứ ba, Luật thi đua, khen thưởng phải xác định được hệ thống tiêu chí thi đua, khen thưởng, góp phần xây dựng các chuẩn mực đạo đức và pháp lý của xã hội Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới.
Thứ tư, Việc ban hành Luật thi đua, khen thưởng là một bước quan trọng pháp điển hoá pháp luật về thi đua, khen thưởng, tạo lập một khuôn khổ pháp lý, làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của công tác thi đua, khen thưởng, phát huy vai trò của các tổ chức và cá nhân trong xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.
Thứ năm, Luật thi đua, khen thưởng khi được ban hành phải đảm bảo tính thống nhất giữa tính chất, hình thức và đối tượng khen thưởng. Việc khen thưởng là sự động viên tinh thần là chủ yếu, có kết hợp khuyến khích lợi ích vật chất và chính sách ưu đãi khác. Thưởng vật chất chỉ có ý nghĩa động viên, khuyến khích và được thực hiện một lần.
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi: 1900.0191
III. phạm vi điều chỉnh và cơ cấu của luật
1. Phạm vi điều chỉnh của Luật
Để đáp ứng đòi hỏi của thực tế cũng như đảm bảo tính khả thi, Luật thi đua, khen thưởng quy định về một số vấn đề chính sau:
– Tổ chức thi đua, danh hiệu và tiêu chuẩn danh hiệu thi đua;
– Hình thức, đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng;
– Thẩm quyền quyết định, trao tặng, thủ tục, hồ sơ đề nghị khen thưởng;
– Quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng;
– Xử lý vi phạm về thi đua, khen thưởng.
2. Cơ cấu của Luật thi đua, khen thưởng
Luật thi đua, khen thưởng có 103 điều, được chia thành 8 Chương, 9 mục, cụ thể:
Chương 1. Những quy định chung, gồm 14 điều (từ Điều 1 đến Điều 14) quy định về đối tượng, phạm vi, mục tiêu của thi đua; nguyên tắc thi đua; danh hiệu thi đua; các hình thức khen thưởng; căn cứ xét tặng danh hiệu thi đua, khen thưởng; trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Vịêt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác trong việc tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng; các hành vi bị cấm.
Chương 2. Quy định về tổ chức thi đua, danh hiệu về tiêu chuẩn danh hiệu thi đua, gồm 17điều (từ Điều 15 đến Điều 31).
Chương 3. Hình thức, đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng, gồm 7 mục với 45 điều (từ Điều 32 đến Điều 76).
Chương 4. Quy định về thẩm quyền quyết định, trao tặng, thủ tục, hồ sơ đề nghị khen thưởng, gồm 2 mục với 10 điều (từ Điều 77 đến Điều 86).
Chương 5. Quy định về quyền và nghĩa vụ cá nhân, tập thể được khen thưởng, gồm 3 điều (từ Điều 87 đến Điều 89).
Chương 6. Quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng, gồm 6 điều (từ Điều 90 đến Điều 95).
Chương 7. Xử lý vi phạm gồm 3 điều (từ Điều 96 đến Điều 98).
Chương 8. Điều khoản thi hành, gồm 5 điều (từ Điều 99 đến Điều 103).
IV. nội dung chủ yếu của luật thi đua, khen thưởng
1. Về nguyên tắc thi đua, khen thưởng (Điều 6)
Thi đua, khen thưởng là một công tác quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng và nhà nước ta đã nhận thức và đánh giá cao vai trò, tác dụng của công tác thi đua ái quốc, khen thưởng và vận dụng linh hoạt trong từng giai đoạn cách mạng, đưa công tác thi đua, khen thưởng thực sự là một trong những công cụ quản lý nhà nước, là nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua. Vì vậy, để công tác thi đua, khen thưởng thực sự trở thành động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động sáng tạo vượt lên khó khăn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thì công tác thi đua phải được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện, tự giác, công khai; đoàn kết, hợp tác và cùng phát triển.
Công tác khen thưởng phải chính xác, công khai, công bằng, kịp thời; bảo đảm thống nhất giữa tính chất, hình thức và đối tượng khen thưởng; kết hợp chặt chẽ động viên tinh thần với khuyến khích bằng lợi ích vật chất; một hình thức khen thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng.
2. Về thi đua (từ Điều 15 đến Điều 31)
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng hiện hành vừa thừa, vừa thiếu lại không đồng bộ, các văn bản chủ yếu điều chỉnh lĩnh vực khen thưởng. Nay Luật thi đua, khen thưởng đã dành 1 Chương ( Chương II từ Điều 15 đến Điều 31) để quy định về công tác thi đua, đó là: về tổ chức thi đua, danh hiệu và tiêu chuẩn danh hiệu thi đua. Theo đó, hình thức thi đua gồm: Thi đua thường xuyên và thi đua theo đợt. Phạm vi thi đua được phát động trên phạm vi toàn quốc; Bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương và cơ sở.
– Về danh hiệu thi đua đối với cá nhân gồm:
+ Chiến sĩ thi đua toàn quốc;
+ Chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương;
+ Chiến sĩ thi đua cơ sở;
+ Lao động tiên tiến, Chiến sĩ tiên tiến.
– Về danh hiệu thi đua đối với tập thể gồm:
+ Cờ thi đua của Chính phủ;
+ Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương;
+ Tập thể lao động xuất sắc, Đơn vị quyết thắng;
+ Tập thể lao động tiên tiến, Đơn vị tiên tiến;
+ Danh hiệu thi đua đối với thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố và tương đương là thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố văn hoá.
–Danh hiệu thi đua đối với hộ gia đình là “ Gia đình văn hoá”.
Ngoài việc quy định danh hiệu “ Lao động tiên tiến”, “ Chiến sỹ tiên tiến” để tặng cho cán bộ, công chức, công nhân, viên chức, sỹ quan, hạ sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, chiến sỹ quân đội nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên nghiệp, chiễn sỹ công an nhân dân, thì Luật còn quy định việc xét tặng danh hiệu “ Lao động tiên tiến” đối với người lao động khi người đó gương mẫu chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có đạo đức, lối sống lành mạnh, đoàn kết, tương trợ, tích cực tham gia các phong trào thi đua sản xuất, hoạt động xã hội và lao động có năng suất cao ( khoản 3 Điều 24)
Tiêu chuẩn để cá nhân, tập thể được nhận các danh hiệu thi đua nói trên được Luật quy định từ Điều 21đến Điều 31.
3. Về huân chương (từ Điều 32 đến Điều 51)
Huân chương để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng cho tập thể có công trạng, lập được thành tích thường xuyên hoặc đột xuất, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện khen thưởng 18 loại huân chương. Luật thi đua, khen thưởng chỉ quy định 10 loại:
– “Huân chương Sao vàng”;
– “Huân chương Hồ Chí Minh”;
– “Huân chương Độc lập” hạng nhất, hạng nhì, hạng ba;
– “Huân chương Quân công” hạng nhất, hạng nhì, hạng ba;
– “Huân chương Lao động” hạng nhất, hạng nhì, hạng ba;
-“Huân chương Bảo vệ Tổ quốc”hạng nhất, hạng nhì, hạng ba;
-“Huân chương Chiến công” hạng nhất, hạng nhì, hạng ba;
-“Huân chương Đại đoàn kết dân tộc”;
– “Huân chương Dũng cảm”;
– “Huân chương Hữu nghị”.
Trong 10 loại huân chương này có 7 loại Huân chương đã có trước đây, đó là: Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, Huân chương Quân công, Huân chương Lao động, Huân chương Chiến công, Huân chương Hữu nghị. Luật thi đua, khen thưởng không quy định lại 11 loại Huân chương: Huân chương Tổ quốc, Huân chương Thành đồng, Huân chương Giải phóng quân Việt Nam, Huân chương Quân công giải phóng, Huân chương Chiến thắng, Huân chương Quyết thắng, Huân chương Chiến công giải phóng, Huân chương Kháng chiến, Huân chương Giải phóng, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang, Huân chương Chiễn sĩ giải phóng. Việc không quy định lại 11 loại Huân chương nói trên là vì những Huân chương này được dùng để khen thưởng thành tích trong công cuộc kháng chiến vừa qua.
Luật thi đua, khen thưởng đã bổ sung thêm 3 loại Huân chương mới, đó là: Huân chương Bảo vệ Tổ quốc, Huân chương Dũng cảm, Huân chương Đại đoàn kết dân tộc. Việc quy định bổ sung thêm 3 loại Huân chương mới vì:
– Huân chương Bảo vệ Tổ quốc: Trước đây, Nhà nước ta ban hành Huân chương Chiễn sĩ (sau đổi thành Huân chương Chiến công), để tặng cho cá nhân, tập thể đã lập chiến công trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc; có nhiều thành tích trong công tác huấn luyện, xây dựng lực lượng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân và làm nghĩa vụ quốc tế.
Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, nếu sử dụng Huân chương Chiến công để tăng thưởng cho những cán bộ, chiến sĩ và nhân dân có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác huấn luyện, xây dựng lực lượng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân thì không còn phù hợp. Vì vậy, Luật thi đua, khen thưởng đã bổ sung Huân chương Bảo vệ Tổ quốc để tặng thưởng cho những cán bộ, chiến sĩ và nhân dân có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác huấn luyện, xây dựng lực lượng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
Riêng Huân chương Chiến công vẫn tiếp tục được dùng để tặng thưởng cho những cá nhân, tập thể lập được chiến công trong chiến đấu và trực tiếp phục vụ chiến đấu khi xảy ra tác chiến trên mặt trận giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ đất nước.
– Huân chương Dũng cảm: Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, có nhiều tấm gương dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước, tập thể và nhân dân, đặc biệt là trong đấu tranh phòng, chống thiên tai, tệ nạn xã hội và tội phạm. Để có hình thức khen thưởng kịp thời cho những hành động dũng cảm đó, Luật thi đua, khen thưởng đã bổ sung hình thức khen thưởng Huân chương Dũng cảm là nhằm động viên, khuyến khích và ghi nhận công lao của người có hành động dũng cảm đó.
– Huân chương Đại đoàn kết dân tộc: Khối đại đoàn kết dân tộc luôn là động lực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc bổ sung Huân chương Đại đoàn kết dân tộc để tặng hoặc truy tặng cho những cá nhân tiêu biểu trong các tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quá trình, công lao to lớn trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc.
Tiêu chuẩn để cá nhân, tập thể được nhận Huân chương được Luật quy định từ Điều 34 đến Điều 51.
4. Về Huy chương (từ Điều 52 đến Điều 57)
Huy chương để tặng cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân và người nước ngoài đã có thời gian cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện khen thưởng bằng 14 loại Huy chương. Luật thi đua, khen thưởng chỉ quy định có 4 loại Huy chương, đó là:
– “Huy chương Quân kỳ quyết thắng”;
– “Huy chương Vì an ninh Tổ quốc”;
-“Huy chương Chiến sĩ vẻ vang” hạng nhất, hạng nhì, hạng ba;
-“Huy chương Hữu nghị”.
Không quy định lại 11 loại Huy chương: Huy chương Anh hùng lao động, Huy chương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân , Huy chương Quân giải phóng, Huy chương Kháng chiến, Huy chương Chiến thắng, Huy chương Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng, Huy chương Giải phóng, Huy chương Quyết thắng, Huy chương chiến sĩ giải phóng, Kỷ niệm chương Tổ quốc ghi công, Huy chương Chiến sĩ vẻ vang.
Trước đây, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang được chia thành 3 hạng (hạng nhất, nhì, ba) và Huy chương Chiến sĩ vẻ vang (không chia hạng). Luật quy định theo hướng: Việc xét tặng Huân chương chủ yếu căn cứ vào công trạng, thành tích; việc xét tặng Huy chương chủ yếu căn cứ vào niên hạn công tác. Do đó, Luật không quy định Huân chương Chiến sĩ vẻ vang mà chỉ quy định Huy chương Chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba. Huy chương để tặng cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân và người nước ngoài đã có thời gian cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Huy chương gồm:
– “Huy chương Quân kỳ quyết thắng”;
– “ Huy chương Vì an ninh Tổ quốc”;
– “ Huy chương Chiến sĩ vẻ vang”hạng nhất, hạng nhì, hạng ba;
– “ Huy chương Hữu nghị”.
Hình thức các loại, hạng huy chương được phân biệt bằng màu sắc, số vạch trên dải và cuống huy chương.
– Huy chương Quân kỳ quyết thắng để tặng cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng có thời gian phục vụ liên tục trong Quân đội nhân dân từ 25 năm trở lên.
– Huy chương Vì an ninh Tổ quốc để tặng cho sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp có thời gian phục vụ liên tục trong Công an nhân dân từ 25 năm trở lên.
– Huy chương Chiến sĩ vẻ vang để tặng cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân.
+ “Huy chương Chiến sĩ vẻ vang” hạng nhất để tặng cho cá nhân có thời gian công tác từ 15 năm trở lên.
+ “Huy chương Chiến sĩ vẻ vang” hạng nhìđể tặng cho cá nhân có thời gian công tác từ 10 năm trở lên.
+ “Huy chương Chiến sĩ vẻ vang” hạng ba để tặng cho cá nhân có thời gian công tác từ 5 năm trở lên.
– Huy chương Hữu nghị để tặng cho người nước ngoài có thời gian làm việc tại Việt Nam, có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
5. Về Danh hiệu vinh dự nhà nước (từ Điều 58 đến Điều 65)
Danh hiệu vinh dự nhà nước để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng cho tập thể có những đóng góp đặc biệt xuất sắc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước khi ban hành Luật thi đua, khen thưởng, Nhà nước thực hiện khen thưởng bằng 6 danh hiệu vinh dự nhà nước, gồm: Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lao động; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú; Thầy thuốc nhân dân, Thầy thuốc ưu tú; Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú. Nhằm tôn vinh những cá nhân có quá trình nhiều năm trong nghề tiểu thủ công mỹ nghệ truyền thống, đã kế tục giữ gìn và phát triển ngành nghề, có tài năng xuất sắc, tay nghề điêu luyện , đã trực tiếp làm ra các sản phẩm có giá trị, có công trong việc truyền và dạy nghề, được đồng nghiệp mến mộ, kính trọng, tiêu biểu cho các nghề thủ công mỹ nghệ ở các địa phương và cả nước. Luật quy định thêm danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú. Như vậy, Luật này quy định 7 danh hiệu vinh dự nhà nước gồm:
– Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
– Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân;
– Anh hùng Lao động;
– Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú;
– Thầy thuốc nhân dân, Thầy thuốc ưu tú;
– Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú;
– Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú.
Đối tượng, tiêu chuẩn được xét tặng các danh hiệu vinh dự nhà nước được quy định từ Điều 59 đến Điều 65 của Luật.
6. Về giải thưởng Hồ Chí Minh; Giải thưởng nhà nước
Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng nhà nước để tặng cho tác giả của một hoặc nhiều công trình, tác phẩm đã được công bố, sử dụng kể từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, bao gồm:
– Công trình nghiên cứu khoa học, công nghệ, sách giáo khoa, giáo trình sử dụng trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác.
– Tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình nghiên cứu lý luận phê bình dưới các hình thức xuất bản, kiến trúc, triển lãm, sân khấu, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, giảng dạy, đĩa hát hoặc các hình thức khác.
– Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng nhà nước cũng được tặng cho người nước ngoài có tác phẩm, công trình nghiên cứu về Việt Nam.
Tiêu chuẩn cụ thể để công trình, tác phẩm được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng nhà nước được quy định tại Điều 67, 68 của Luật.
7. Kỷ niệm chương, Huy hiệu (Điều 69)
Trước khi Quốc hội ban hành Luật thi đua, khen thưởng, một số bộ, ban, ngành và các đoàn thể ở Trung ương có hình thức “ Huy chương vì sự nghiệp” hoặc “ Kỷ niệm chương” để tặng cho cá nhân có công lao đóng góp cho hoạt động của ngành, lĩnh vực hay đoàn thể. Để thống nhất những hình thức khen thưởng này, Điều 69 của Luật đã quy định: Kỷ niệm chương hoặc Huy hiệu để tặng cho cá nhân có đóng góp vào quá trình phát triển của bộ, ban, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội. Tên Kỷ niệm chương, tên Huy hiệu, đối tượng và tiêu chuẩn tặng Kỷ niệm chương, Huy hiệu do bộ, ban, ngành, cơ quan trung ương của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội quy định. Kỷ niệm chương, Huy hiệu phải được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở Trung ương.
8. Bằng khen (Điều 70 đến Điều 73)
Bằng khen để tặng cho cá nhân, tập thể lập được thành tích thường xuyên hoặc đột xuất.
Bằng khen gồm:
– Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ;
– Bằng khen cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương.
Tiêu chuẩn để cá nhân, tập thể được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Bằng khen cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương được quy định tại các Điều 71,72,73 của Luật.
9. Giấy khen (Điều 69)
Giấy khen để tặng cho cá nhân, tập thể lập được thành tích thường xuyên hoặc đột xuất.
Giấy khen gồm:
– Giấy khen của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc bộ, ngành, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
– Giấy khen của Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc các doanh nghiệp nhà nước;
– Giấy khen của Thủ trưởng cơ quan chuyên môn và tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;
– Giấy khen của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện;
– Giấy khen của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Tiêu chuẩn để cá nhân, tập thể được nhận Giấy khen được quy định tại Điều 74, 75 của Luật. Ngoài ra, Luật thi đua, khen thưởng quy định việc khen thưởng bằng hình thức giấy khen của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội do cơ quan trung ương của các tổ chức này quy định; Việc khen thưởng bằng hình thức giấy khen đối với cá nhân, tập thể, người đang học tập tại nhà trường hoặc cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định; Việc khen thưởng bằng hình giấy khen của các tổ chức khác do Chính phủ quy định.
10. Thẩm quyền quyết định, trao tặng, thủ tục, hồ sơ đề nghị khen thưởng (Điều 77 đến Điều 86)
– Thẩm quyền quyết định, trao tặng:
+ Chủ tịch nước quyết định tặng huân chương, huy chương, “ Giải thưởng Hồ Chí Minh”, “ Giải thưởng nhà nước”, danh hiệu vinh dự nhà nước.
+ Chính phủ quyết định tặng “ Cờ thi đua của Chính phủ”.
+ Thủ tướng Chính phủ quyết định tặng danh hiệu “ Chiến sĩ thi đua toàn quốc”, “ Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ”.
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo cơ quan, tổ chức ở trung ương của đoàn thể, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tặng bằng khen, cờ thi đua, danh hiệu “ Tập thể lao động xuất sắc”, “ Đơn vị quyết thắng” “ Danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương.
+ Thủ trưởng cơ quan, tổ chức thuộc bộ, ban, ngành, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc các doanh nghiệp nhà nước; Thủ trưởng cơ quan chuyên môn và tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định tặng danh hiệu “ Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở”, danh hiệu “ Lao động tiên tiến”, “ Chiến sỹ tiến tiến”, “ Tập thể lao động tiên tiến”, “ Đơn vị tiên tiến” và giấy khen.
+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định tặng danh hiệu thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố văn hoá.
+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã quyết định tặng giấy khen, danh hiệu “ Gia đình văn hoá”.
Người có thẩm quyền quyết định tặng hình thức khen thưởng nào thì trực tiếp trao tặng hoặc uỷ quyền trao tặng hình thức khen thưởng đó.
Đại sứ hoặc người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài được uỷ quyền trao tặng các hình thức khen thưởng của Nhà nước Việt Nam cho tập thể, cá nhân ở nước sở tại.
Việc tổ chức lễ trao tặng các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng do Chính phủ quy định.
– Thủ tục và hồ sơ đề nghị khen thưởng
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo cơ quan, tổ chức ở trung ương của đoàn thể, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ để đề nghị Chủ tịch nước quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, “ Giải thưởng Hồ Chí Minh”, “ Giải thưởng nhà nước”, danh hiệu vinh dự nhà nước.
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, lãnh đạo cơ quan trung ương của đoàn thể, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đề nghị Chính phủ quyết định tặng “ Cờ thi đua của Chính phủ”; đề nghị Thủ tướng Chính phủ quyết định tặng “ Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ”, danh hiệu “ Chiến sỹ thi đua toàn quốc”.
+ Các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng khác do cấp dưới trực tiếp của người có thẩm quyền quyết định danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng đề nghị.
+ Cơ quan chức năng về thi đua, khen thưởng tiếp nhận, xem xét hồ sơ và giúp người có thẩm quyền quyết định việc khen thưởng.
– Hồ sơ xét danh hiệu thi đua gồm:
+ Báo cáo thành tích của cá nhân, tập thể;
+ Đề nghị của Hội đồng thi đua;
+ Biên bản bình xét thi đua;
– Hồ sơ đề nghị xét khen thưởng gồm:
+ Bản thành tích của cá nhân hoặc tập thể được đề nghị khen thưởng;
+ Văn bản đề nghị khen thưởng của Thủ trưởng cơ quan, tổ chức có cá nhân, tập thể được xét khen thưởng;
+ Trường hợp đề nghị khen thưởng cho cá nhân, tập thể có phát minh sáng kiến, cải tiến, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, sáng tác hoặc sáng tạo trong các lĩnh vực khác phải kèm chứng nhận của cơ quan quản lý có thẩm quyền.
+ Trường hợp đề nghị tặng huân chương, huy chương, danh hiệu vinh dự nhà nước, “ Cờ thi đua của Chính phủ”, “ Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ” phải có ý kiến của của cơ quan quản lý nhà nước theo ngành dọc ở trung ương hoặc chính quyền địa phương.
Ngoài việc đề nghị khen thưởng theo thủ tục chung. Luật thi đua, khen thưởng còn quy định các trường hợp được đề nghị khen thưởng theo thủ tục đơn giản (Điều 85) đối với các trường hợp sau:
– Việc khen thưởng phục vụ yêu cầu chính trị, kịp thời động viên, khích lệ quần chúng;
– Cá nhân, tập thể lập được thành tích xuất sắc đột xuất trong chiến đấu, công tác, lao động, học tập;
– Thành tích, công trạng rõ ràng.
Việc khen thưởng theo thủ tục đơn giản do Chính phủ quy định.
11. Quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tập thể được khen thưởng. Được quy định tại các Điều 87, 88, 89 của Luật. Cụ thể:
– Cá nhân, tập thể được khen thưởng, tuỳ từng hình thức khen thưởng, được tặng hiện vật khen thưởng và được hưởng lợi ích khác theo quy định của pháp luật.
– Cá nhân được tặng các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng có quyền lưu giữ, trưng bày và sử dụng hiện vật khen thưởng.
– Tập thể được tặng các hình thức khen thưởng có quyền lưu giữ, trưng bày, được sử dụng biểu tượng của các hình thức khen thưởng đó trên các văn bản, tài liệu chính thức của tập thể.
– Cá nhân, tập thể được khen thưởng có nghĩa vụ bảo quản các hiện vật khen thưởng, không được cho người khác mượn để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
12. Quản lý nhà nước về công tác thi đua khen thưởng ( Từ Điều 90 đến Điều 95)
Để đảm bảo thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng, Luật quy định: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước (Điều 91). Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội thực hiện quản lý thi đua, khen thưởng trong phạm vi ngành, tổ chức mình (Điều 92, 93).
13. Xử lý vi phạm (từ Điều 96 đến Điều 98)
Bên cạnh việc tăng cường đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân có thành tích xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì cũng cần phải xử lý nghiêm những người có hành vi vi phạm các quy định của Luật thi đua, khen thưởng. Cụ thể:
– Người nào gian dối trong việc kê khai thành tích để được khen thưởng thì bị huỷ bỏ quyết định khen thưởng và bị thu hồi hiện vật và tiền thưởng đã nhận; tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm mà còn bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
– Cá nhân xác nhận sai sự thật hoặc làm giả hồ sơ, giấy tờ cho người khác để đề nghị khen thưởng; người lợi dụng chức vụ quyền hạn quyết định khen thưởng trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
– Cá nhân được tặng thưởng danh hiệu vinh dự nhà nước mà vi phạm pháp luật thì có thể bị tước danh hiệu vinh dự nhà nước đó theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
Việc tước danh hiệu vinh dự nhà nước do Chủ tịch nước quyết định.
– Cá nhân có quyền khiếu nại, tố cáo về thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Tổ chức có quyền khiếu nại về thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
– Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
14. Thời điểm áp dụng Luật thi đua, khen thưởng.
Luật thi đua, khen thưởng có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004.
Nhà nước bảo hộ các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng đã được tặng hoặc truy tặng trước khi Luật thi đua, khen thưởng có hiệu lực.
V. tổ chức thực hiện
Để những quy định của Luật thi đua, khen thưởng sớm đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, trong thời gian tới, các bộ, ngành, địa phương triển khai tổ chức một số công việc chủ yếu sau:
1. Bộ Nội vụ chủ trì phối hợp với các bộ, ngành có liên quan xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thi đua, khen thưởng;
2. Các cơ quan, tổ chức, đoàn thể ban hành kế hoạch tổ chức thực hiện và tuyên truyền, phổ biến Luật thi đua, khen thưởng.
3. Uỷ ban nhân dân các cấp chủ động, tích cực thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng,khơi dậy và phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần hy sinh cao cả của toàn Đảng, toàn dân ta và toàn quân góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
4. Cơ quan Tư pháp phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan, đặc biệt là các phương tiện thông tin đại chúng tổ chức tập huấn, tuyên truyền, phổ biến kịp thời Luật thi đua, khen thưởng tới các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, cán bộ, công chức và nhân dân, giúp mỗi cá nhân nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới, sáng tạo vươn lên lập thành tích xuất sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh”./.
Bộ Tư pháp – Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật
(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
——————————————————————————–
THAM KHẢO DỊCH VỤ TƯ VẤN LIÊN QUAN:
1. Tư vấn pháp luật lao động;
2.Tư vấn pháp luật lĩnh vực dân sự;
3. Tư vấn luật hành chính Việt Nam;
4. Luật sư riêng cho doanh nghiệp;
5.Dịch vụ Luật sư của LVN Group tư vấn giải quyết tranh chấp tại tòa án.
6. Luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình;