1. George Elton Mayo

George Elton Mayo (26 tháng 12 năm 1880 – 7 tháng 9 năm 1949) là một nhà tâm lý học sinh ra ở Úc, nhà nghiên cứu công nghiệp và nhà lý thuyết tổ chức. Mayo được đào tạo chính thức tại Đại học Adelaide, lấy bằng Cử nhân Nghệ thuật tốt nghiệp hạng Nhất, chuyên ngành triết học và tâm lý học, và sau đó được trao bằng Thạc sĩ Nghệ thuật danh dự của trường Đại học. của Queensland (UQ).

Vào năm 20 tuổi, ông đỗ thạc sĩ logic học và triết học tại trường Đại học A. ở úc. Sau đó, ông được mời làm giảng viên logic học và triết học ở trường Đại học Queen’s land, rồi đi nghiên cứu bệnh thần kinh ở Scotland, nhằm phân tích những hiện tượng không bình thường về thần kinh. Được sự tài trợ của quỹ Rockefeller, ông đã đến cư trú ở Mỹ, giảng dạy tại Học viện quản lý thuộc trường Đại học Pennsylvania. Trong thời gian này, ông đã vận dụng các khái niệm về tâm lý học để giải thích những hành vi của còng nhân công nghiệp. Ông cho rằng những nhân tố ảnh hưởng đến các hành vi của công nhân công nghiệp rất nhiều nhưng không có nhân tố nào có vai trò quyết định. Ông đã nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện làm việc đối với tỷ lệ di chuyển và nãng suất lao động cúa công nhân ở phân xưởng sợi con của một nhà mấy dệt gần thành phố Philadelphia. Năm 1926, ông đến Học viện quản lý công thương nghiệp thuộc trường Đại học Harvard để chuyên sâu nghiên cứu về công nghiệp.

Khi ở Queensland, Mayo phục vụ trong ủy ban chiến tranh của trường Đại học và đi tiên phong trong nghiên cứu về phương pháp điều trị phân tích tâm lý đối với chứng sốc vỏ. Là một nhà tâm lý học, Mayo thường giúp những người lính trở về từ Thế chiến thứ nhất hồi phục sau những căng thẳng của chiến tranh và cùng với một bác sĩ Brisbane, đã đi tiên phong trong việc điều trị phân tâm học đối với chứng sốc vỏ và tiến hành các bài kiểm tra tâm lý-bệnh lý. Ông là giảng viên tâm lý học và triết học tâm thần tại UQ từ năm 1911 đến năm 1922, khi ông lên đường đến Hoa Kỳ. Năm 1926, ông được bổ nhiệm vào Trường Kinh doanh Harvard (HBS) với tư cách là giáo sư nghiên cứu công nghiệp.

Tại Philadelphia, ông đã tiến hành nghiên cứu tại một nhà máy dệt để phát triển một phương pháp giảm tỷ lệ doanh thu rất cao trong nhà máy. Sự liên kết của Mayo với các nghiên cứu ở Hawthorne cũng như nghiên cứu và công việc của ông ở Úc đã khiến ông nhận được sự hoan nghênh của công chúng đối với một số nhà khoa học xã hội thời đó.

Mayo đã được ghi nhận là đã có những đóng góp đáng kể cho một số lĩnh vực, bao gồm quản lý kinh doanh , xã hội học công nghiệp , triết học và tâm lý học xã hội . Nghiên cứu thực địa của ông trong ngành công nghiệp đã có một tác động đáng kể đến tâm lý công nghiệp và tổ chức . Theo Trahair, Mayo “được biết đến là người đã thành lập nghiên cứu khoa học về cái mà ngày nay được gọi là hành vi tổ chức khi ông dành sự quan tâm sâu sắc đến các vấn đề con người, xã hội và chính trị của nền văn minh công nghiệp.”

2. Ảnh hưởng công việc đến sự nghiệp của ông

Công việc của Mayo đã giúp đặt nền móng cho phong trào quan hệ giữa con người với nhau. Ông nhấn mạnh rằng bên cạnh tổ chức chính thức của một nơi làm việc công nghiệp, còn tồn tại một cơ cấu tổ chức không chính thức. Mayo nhận ra “sự bất cập của các phương pháp quản lý khoa học hiện có ” đối với các tổ chức công nghiệp và nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ giữa những người làm việc cho các tổ chức đó. Những ý tưởng của ông về quan hệ nhóm đã được nâng cao trong cuốn sách Những vấn đề con người của một nền văn minh công nghiệp hóa năm 1933 , một phần dựa trên nghiên cứu ở Hawthorne của ông.

3. Khái quát nghiên cứu của Mayor

Một trong những nỗ lực nghiên cứu sớm nhất của Mayo (1924) có sự tham gia của các công nhân tại một nhà máy dệt ở Philadelphia. Nhà máy đã có một tỷ lệ doanh thu cao . Mayo tin rằng công việc lặp đi lặp lại ở bộ phận quay sợi đã làm phát sinh các biểu hiện bất thường về tinh thần ở các công nhân. Ông nhận thấy rằng việc đưa ra các khoảng thời gian nghỉ ngơi đã giúp giảm doanh thu. Nghiên cứu đã giúp Mayo được biết đến rộng rãi hơn ở Mỹ.

Mayo đã giúp đặt nền móng cho phong trào quan hệ giữa con người và được biết đến với công trình nghiên cứu công nghiệp bao gồm Nghiên cứu về Hawthorne và cuốn sách Những vấn đề con người của một nền văn minh công nghiệp hóa (1933). Nghiên cứu do ông thực hiện theo bảng đánh giá của Nghiên cứu Hawthorne vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930, nhấn mạnh tầm quan trọng của các nhóm trong việc ảnh hưởng đến hành vi của các cá nhân tại nơi làm việc.

Elton Mayo đã đặt ra các quy tắc cơ bản cho việc phỏng vấn , các nguyên tắc này sau đó đã được lặp lại trong nhiều cuốn sách về cách lãnh đạo, huấn luyện và cố vấn trong nửa thế kỷ qua.

4. Cuốn sách “Vấn đề con người trong nền văn minh công nghiệp”

Năm 1927, ông tham gia một công trình nghiên cứu về quản lý dã bắt đầu từ năm 1924 nhưng nửa chừng gặp khó khăn. Từ năm 1927 đến năm 1936, ông đã tham gia công trình nghiên cứu này trong 9 năm, gồm 2 giai đoạn nhưng không liên tục. Trên cơ sở công trình nghiên cứu này, ông đã lần lượt xuất bản cuốn sách “Vấn đề con người trong nền văn minh công nghiệp” và “Những vấn đề xã hội trong nền văn minh công nghiệp” vào năm 1933 và năm 1945.

Trong công trình nghiên cứu này, ông đã đề cập đến thuộc tính xã hội trong sản xuất công nghiệp. Đó là năng suất lao động không chỉ liên quan mật thiết đến tâm lý, động cơ, thái độ của công nhân, quan hệ giữa người và người trong quần thể của họ và quan hệ giữa người lãnh đạo với tập thế những người bị lãnh đạo. Công trình nghiên cứu ấy và kết quả của nó đã ảnh hường to lớn, lâu dài đến sự phát triển của lý luận quản lý phương Tây. Thành quả của công trình nghiên cứu này đã lấp được khoảng trống của quá trình nhận thức và lý giải nhân tố con người trong môi trường làm việc. Hạt nhân của nó là phát hiện ra tổ chức phi chính thức và coi đó là nguồn gốc tạo nên tinh thần làm việc hăng hái cúa công nhân. Thành quả nghiên cứu của ông còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống trao đổi ý kiến rộng rãi trong tổ chức, đặc biệt là trao đổi giữa công nhân với nhân viên quản lý.

Kết quả điều tra cho thấy, như Mayor đã nói. “sự thành bại của quản lý liên quan mật thiết với việc tổ chức có thể hoàn toàn tiếp nhận uy quyền và sự lãnh đạo hay không”.

Tất cả những việc mà Mayor tiến hành đã khiến cho tư tưởng quan lý ở phương Tây, sau khi trải qua giai đoạn của lý luận quản lý sơ khai và lý luận quản lý cổ điển, bao gồm lý luận quản lý một cách khoa học của Taylor, lý luận về quản lý tổ chức của Fayol, lý luận về tổ chức chỉ huy hành chính theo thể chếquan liêu của Weber, đã bước vào giai đoạn lý luận quản lý của khoa học hành vi.

Trường phái khoa học hành vi trong thời kỳ đầu là trường phái nghiên cứu quan hệ giữa người với người hoặc còn gọi là trường phái Mayor vì Mayor là đại diện chủ yếu của trường phái đó. Trước khi trường phái này xuất hiện, các nhà lý luận về quản lý chủ yếu nhấn mạnh tính khoa học, tính chặt chẽ của quản lý nhưng coi nhẹ vai trò con người, coi công nhân là vật phụ thuộc vào máy móc. Trường phái Mayor chú trọng nhân tố con người, nghiên cứu hành vi cá thể và hành vi quần thể của con người, nhấn mạnh việc thỏa mãn nhu cầu xã hội của cồng nhân viên. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu ở nhà máy dệt, Mayor đã đưa ra những nguyên lý mới nhằm hoàn thiện lý luận về quản lý xí nghiệp. Đó là:

Công nhân là “con người xã hội”, là thành viên của hệ thống xã hội phức tạp.

Trong xí nghiệp, ngoài tổ chức chính thức còn có tổ chức phi chính thức.

Năng lực lãnh đạo kiêu mới được thể hiện thông qua việc nâng cao mức độ hài lòng của công nhân viên, khích lệ tinh thần công nhân viên, do đó mà đạt được mục đích nâng cao năng suất lao động.

Thông qua còng trình nghiên cứu ở nhà máy dệt, Mayor và các bạn ông đều nhận thây, công nhân không phải là “con người kinh tế”, coi tiền bạc là động lực duy nhất kích thích tính tích cực của họ mà là “con người xã hội” nên ngoài nhân tố vật chất, họ còn có nhân tô xã hội và tâm lý. Do đó, năng lực lãnh đạo kiểu mới được thể hiện ở chỗ nó giữ được sự cân bằng giữa nhu cầu kinh tế của “tổ chức chính thức” với nhu cầu xã hội của “tổ chức phi chính thức” của công nhân. Họ cho rằng, chỉ có như vậy mới có thể bổ cứu vào sự khiếm khuyết của lý luận quản lý cổ điên, giải quyết mâu thuẫn và xung đột giữa chủ với thợ, thậm chí là của cả xã hội vãn minh công nghiệp.

5. Ý nghĩa cuốn sách “Những vấn đề xã hội trong nền văn minh công nghiệp”

Cuốn sách “Những vấn đề xã hội trong nền văn minh công nghiệp”, trên ý nghĩa nhất định, là sự phát triển những quan điểm mà tác giả đã trình bày trong cuốn “Vấn đề con người trong nền vãn minh công nghiệp” vì lúc đó, tầm nhìn của tác giả đã rộng hơn, kinh nghiệm phong phú hơn. Những vấn đề mà ông nếu ra trong sách không chỉ giới hạn trong phạm vi quản lý kinh doanh của xí nghiệp công nghiệp mà trên thực tế, đã đề cập đến một số vấn đề có tính chất cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại và vấn đề quản lý xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây sau chiến tranh.

Do đó, mặc dầu phần lớn những điều mà tác giả nói đến trong sách là những việc trước chiến tranh thê’ giới thứ hai nhưng đó là những tài liệu hiếm có để nghiên cứu chủ nghĩa tư bản hiện đại, đặc biệt là một số phân tích mang tính dự đoán về triển vọng phát triển của thế giới sau chiến tranh, ngày nay mang ra đọc vẫn thấy nhiều ý mới.

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật LVN Group (Sưu tầm và Biên soạn)