Khách hàng: kính thưa Luật sư, liên quan đến giải pháp quản lý nhà nước để nâng cao năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế của Việt Nam đến năm 2025 về tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành trong điều tra, áp dụng các biện pháp tự vệ, thiết lập hệ thống cung cấp thông tin, hỗ trợ tư vấn và cơ sở vật chất liên quan đến vụ việc tự vệ thương mại được thực hiện như thế nào?

Cảm ơn!

1. Biện pháp tự vệ thương mại

Đối với thuật ngữ “tự vệ” theo WTO được hiểu là hành động khẩn cấp của nước nhập khẩu trước việc gia tăng nhập khẩu của một loại hàng hoá cụ thể, khi mà sự gia tăng nhập khẩu này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa đó trong nước.

Tuy nhiên, đây chỉ là quan niệm, cách hiểu cơ bản và vận dụng về biện pháp tự vệ, không phải là định nghĩa phản ánh đầy đủ bản chất của hành động tự vệ. Vì vậy, trong các tài liệu nghiên cứu về tự vệ của WTO có đưa ra thêm một số giải thích bổ sung.

Chẳng hạn như, trong tài liệu giải thích về Điều XIX Hiệp định GATT 1994, ở mục 797 khi nhắc đến phán quyết của Uỷ ban phúc thẩm trong vụ kiện Argentina – Footwear nêu rõ biện pháp tự vệ theo qui định tại Điều XIX có đặc trưng là tính khẩn cấp, được áp dụng chỉ duy nhất trong trường hợp mà do kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định GATT 1994, một thành viên nhận thấy quốc gia mình rơi vào những hoàn cảnh mà “không lường trước được” hoặc “ngoài dự đoán” khi đặt ra/đàm phán và ký kết cam kết liên quan.

=> Kết luận: Mặc dù có nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau, nhưng để có thể hiểu và sử dụng khái niệm này trong thực tế, và phù hợp với quan niệm cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, trong phạm vi nghiên cứu, biện pháp tự vệ được sử dụng sẽ là: “Biện pháp tự vệ là một trong ba bộ phận cẩu thành của biện pháp phòng vệ thương mại. Biện pháp tự vệ là công cụ bảo vệ, hỗ trợ ngành sản xuất hàng hoả tương tự, hoặc cạnh tranh trực tiếp của nước nhập khẩu trong trường hợp khẩn cẩp nhằm hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng do tình trạng gia tăng của hàng hoá nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra”.

2. Phòng vệ thương mại

Theo Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế (2017), Cẩm nang tích hợp các FTA theo lĩnh vực – Hướng dẫn thực thi cam kết về phòng vệ thương mại và giải quyết tranh chấp. NXB Hồng Đức, Hà Nội, phòng vệ thương mại là một phần trong chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia, bao gồm: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Các biện pháp phòng vệ thương mại này được sử dụng nhằm bảo vệ hợp pháp thị trường và các ngành sản xuất trong nước (như nông nghiệp, công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp non trẻ, hay các lĩnh vực nhạy cảm trong xã hội…) trước các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Ngoài ra, các biện pháp phòng vệ thương mại còn được sử dụng như hàng rào hạn chế gia nhập thị trường của các đối tác nước ngoài.

Tự do hoá thương mại quốc tế đồng nghĩa với cắt giảm và loại bỏ thuế quan (theo lộ trình cam kết và dần tới loại bỏ hoàn toàn), dẫn đến các ngành sản xuất trong nước vốn vẫn được bảo vệ bởi chính sách thuế cao trước đó bị lâm vào tình thế khó khăn và có khả năng sụp đổ khi phải cạnh tranh với các đói thủ nước ngoài có tiềm lực mạnh mẽ hơn về mọi mặt. Thêm vào đó, khi hàng hoá nước ngoài nhập khẩu vào một thị trường nhiều và dễ dàng hơn, kẻo theo nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh với các mục tiêu kinh tế khác nhau, gây thiệt hại cho các ngành sản xuất trong nước của nước nhập khẩu.

Các quốc gia có thể tuỳ vào từng trường hợp, áp dụng biện pháp phòng vệ cụ thể như chống bán phá giá, chống trợ cấp, hoặc tự vệ đối với hàng hoá nhập khẩu, nếu chứng minh được những thiệt hại thông qua điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại hay chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.

Tuy nhiên, để bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, các biện pháp phòng vệ thương mại còn được sử dụng như công cụ trá hình nhằm hạn chế hàng hoá nhập khẩu, mặc dù WTO đã có những qui định, những nguyên tắc về thủ tục nhằm đưa việc áp dụng những biện pháp phòng vệ thương mại này vào khung khổ pháp lý cụ thể thông qua ba Hiệp định về Chống bán phá giá; Hiệp định về Trợ cấp và Thuế đối kháng; và Hiệp định về Tự vệ, nhằm hạn chế tối đa tình trạng lạm dụng các biện pháp này.

3. Tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành trong điều tra, áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại

Trong quá trình điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thương mại, tăng cường cơ chế phối hợp giữa Bộ Công Thương và các bộ ngành chức năng ngoài việc giúp nâng cao năng lực, khắc phục hạn chế trong quá trình điều tra còn là yếu tố quan trọng trong việc xác định đầy đủ, chính xác và khách quan đối với các yếu tố kỹ thuật ngoài khả năng thực hiện của các điều tra viên của Cục Phòng vệ thương mại. Việc phối hợp điều tra, trao đổi thông tin trước hết sẽ được thực hiện qua các kênh chính thống/các đầu mối của Bộ Công Thương với các bộ quản lý chuyên ngành (công tác biệt phái, báo cáo, giao ban định kỳ, hội nghị…).

Trong thời gian tới, cần xây dựng và tổ chức thực thi cơ chế phối hợp giữa Bộ Công Thương và các bộ ngành chức năng liên quan về điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thương mại.

4. Thiết lập hệ thống cung cấp thông tin, hỗ trợ tư vấn liên quan đến vụ việc tự vệ thương mại

Hiện nay, các thông tin cần thu thập và để xây dựng cơ sở dữ liệu về tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá nói chung và liên quan đến khối lượng hàng hoá nhập khẩu vào thị trường trong nước nói riêng để các doanh nghiệp, Hiệp hội có thể theo dõi và để dự báo tình hình một cách cụ thể, chi tiết, là các thông tin và dữ liệu doanh nghiệp, cũng như hiệp hội rất khó tiếp cận một cách đầy đủ (dù là có trả phí hay không). Phần lớn thông tin và dữ liệu phục vụ cho việc phát hiện, khởi kiện các vụ việc liên quan đến phòng vệ thương mại, trong đó có tự vệ thương mại, doanh nghiệp và hiệp hội khó tiếp cận và thu thập đầy đủ. Đặc biệt, cách tổ chức và thu thập thông tin liên quan hiện nay chưa thể cung cấp ngay trong thời gian ngắn và tức thời cho các chủ thể cần tiếp cận và nắm bắt. Do nhiều nguyên nhân, một phần do có liên quan tới quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu đối với bí mật kinh doanh của mình. Điều này đặt ra thách thức rất lớn cho doanh nghiệp, bởi điều kiện tiên quyết cho việc yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại lại không thể tiếp cận được.

Trên bình diện tổng thể, nhiều thông tin và cơ sở dữ liệu về tình hình xuất nhập khẩu của quốc gia là những thông tin chung, không truy xuất nguồn gốc về một chủ thể nào cụ thể nên hoàn toàn có thể công khai. Trên thế giới, hải quan nhiều nước đã thực hiện việc minh bạch hoá thông tin về xuất nhập khẩu, ít ra là liên quan tới khối lượng, kim ngạch xuất nhập khẩu của từng loại hàng hoá, từ từng nguồn xuất/nhập khẩu. Thậm chí, hải quan một số nước còn công khai cả giá xuất khẩu/nhập khẩu trung bình của hàng hoá.

Do đó, để nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ tự vệ thương mại, cần hiện thực hoá khả năng tiếp cận của doanh nghiệp đối với các thông tin cần thiết cho việc yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại. Hơn nữa, việc công khai các loại thông tin này cũng phù hợp với chủ trương minh bạch hoá của Chính phủ, đặc biệt trong lĩnh vực hải quan.

Cần có cơ chế đa dạng hoả các hình thức tiếp cận thông tin từ Nhà nước của doanh nghiệp. Trong một số trường hợp, thông tin mà doanh nghiệp cần cho việc yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại không phải thông tin sẵn có mà cần được xử lý qua các bước nhất định, ví dụ như khi cần thông tin hàng nhập khẩu của mã HS 6 sổ hay 8 số, doanh nghiệp khó có thể tiếp cận các thông tin đó, hoặc nếu có cũng chưa đủ đáp ứng được yêu cầu.

Trên thực tế, vấn đề này hoàn toàn có thể giải quyết được thông qua cơ chế thu phí dịch vụ: Đối với các thông tin cần được xử lý trước khi cung cấp, cơ quan Nhà nước cung cấp dịch vụ xử lý này và doanh nghiệp trả phí cho các thông tin được cung cấp theo yêu cầu. Cách thức này một mặt tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước có nguồn lực để phục vụ tốt hơn các yêu cầu của doanh nghiệp, mặt khác cũng giúp hạn chế tình trạng doanh nghiệp yêu cầu thông tin mà không chọn lọc, gây áp lực về khối lượng công việc lên các cơ quan Nhà nước liên quan.

Đối với hỗ trợ tư vấn, cơ quan điều tra cỏ thể phối hợp, hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các hình thức như sau:

Thành lập nhóm tư vấn về tự vệ thương mại, nhóm tư vấn này có thể bao gồm các cán bộ của Cục Phòng vệ thương mại, với mục tiêu hỗ trợ các doanh nghiệp rà soát trước nội dung yêu cầu áp dụng biện pháp TVTM. Hỗ trợ này chủ yếu dưới dạng các hướng dẫn để doanh nghiệp có thể bổ sung hoàn thiện yêu cầu cũng như các vấn đề liên quan khác liên quan tới điều kiện như đăng ký bên liên quan… Hoạt động này sẽ giúp doanh nghiệp có thể tự tin rằng các nội dung trong yêu cầu và tài liệu kèm theo là đủ cơ sở để cơ quan điều tra tiến hành giải quyết vụ việc.

Hỗ trợ tìm kiếm, tập hợp thông tin số liệu chính thức thuộc kiểm soát của cơ quan Nhà nước, trong điều kiện doanh nghiệp chưa được phép tiếp cận những thông tin cần thiết, việc tìm kiếm hỗ trợ về thông tin gián tiếp thông qua can thiệp Cục Phòng vệ thương mại là rất quan trọng.

Hỗ trợ, hướng dẫn trong xác minh thông tin, một trong các hoạt động điều tra mà Cục Phòng vệ thương mại thực hiện là xác minh thông tin tại thực địa, bao gồm cả xác minh thông tin đối với nguyên đơn (chủ yếu liên quan tới điều tra thiệt hại nghiêm trọng do tình trạng gia tăng về lượng hàng hoá nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra). Sự hướng dẫn, hỗ trợ đó cho các doanh nghiệp để họ có điều kiện đưa ra các bằng chứng phục vụ hiệu quả nhất cho hoạt động điều tra là rất có ý nghĩa.

5. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để thực thi áp dụng tự vệ thương mại trong thương mại quốc tế

Cần nâng cấp và trang bị đầy đủ trang thiết bị, tạo lập môi trường và điều kiện làm việc cho các cán bộ, điều tra viên các vụ việc về tự vệ thương mại như trang bị phương tiện làm việc đầy đủ và hiện đại.

Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại. Đặc biệt cần trang bị hệ thống máy tính kết nối mạng, thư viện và các cơ sở dữ liệu các vụ việc về tự vệ thương mại. cần phải xây dựng một thư viện điện tử đảm bảo về quy mô và khả năng thuận tiện trong truy cập.

Xem xét xây dựng hệ thống cảnh báo sớm về tự vệ thương mại và có thể tích hợp cấu phần này vào hệ thống cảnh báo sớm các vụ kiện về phòng vệ thương mại.

Trân trọng!