1.Lựa chọn quyền tài phán

Ban đầu, quyền lựa chọn toà án có quyền tài phán thuộc về nguyên đơn. Nguyên đơn sẽ bắt đầu vụ kiện tại toà án của nước mà nguyên đơn tin rằng có thẩm quyền xét xử vụ kiện. Tuy nhiên, cũng có công ty, khi được thông báo là sẽ phải đối mặt với vụ kiện quan trọng, đã quyết định khởi xướng trước vụ kiện (ví dụ: để đạt được bản án/quyết định của toà án tuyên rằng công ty không có liên quan trong vụ này). Hệ quả của việc này là: công ty sẽ cố gắng bảo đảm sao cho các bước tố tụng tại toà án (có quyền tài phán) mang lại lợi ích tốt nhất cho mình. Cơ sở pháp lí quốc tế cho việc lựa chọn quyền tài phán Vấn đề liệu toà án của một nước có quyền tài phán đối với vụ kiện hay không, sẽ được xác định phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước này tham gia, hoặc quy tắc tư pháp quốc tế của nước đó (nói cách khác là các quy phạm xung đột). Lựa chọn toà án có quyền tài phán theo Quy định Brúc-xen Trong khuôn khổ EU, có nhiều điều ước có liên quan đến vấn đề này. Quy định Brúc-xen số 44/2001 về công nhận và thi hành các bản án dân sự và thương mại đã được ban hành ngày 22/12/2000. Quy định này áp dụng đối với các vụ kiện chống lại các bị đơn cư trú trên lãnh thổ EU, hoặc đối với các vụ kiện được tiến hành tại các nước thành viên EU. Quy định Brúcxen có những quy định chi tiết về quyền tài phán trong khuôn khổ EU và xác định nước nào có quyền tài phán đối với vụ kiện cụ thể. Quy định này giúp làm giảm thiểu khả năng theo đó nguyên đơn có thể lựa chọn một hoặc nhiều toà án để tiến hành vụ kiện. Lựa chọn toà án có quyền tài phán theo Công ước Lu-ga-nô Ngày 16/9/1988, tại Lu-ga-nô, các nước thành viên EFTA (Hiệp hội thương mại tự do châu Âu), bao gồm Áo, Phần Lan, Ai-xơ-len, Na Uy, Thuỵ Điển và Thuỵ Sĩ đã kí kết Công ước Lu-ga-nô về quyền tài phán và thi hành các bản án dân sự và thương mại với các nước thành viên EC. Công ước Lu-ga-nô cũng có những quy định tương tự như Quy định Brúc-xen và phần lớn đã bị Quy định này thay thế. Công ước Lu-ga-nô hiện nay vẫn có hiệu lực ở Na Uy và Thuỵ Sĩ, với tư cách là thành viên còn lại của EFTA, cùng với Pháp, Ý, Luých-xăm-bua, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Anh với tư cách là thành viên EU. Ngoài EU, trên thế giới, hầu như hiện nay không có điều ước quốc tế quan trọng nào về vấn đề này. Điều đó có nghĩa là không có một sự hài hoà pháp luật nào. Các quy định của mỗi nước và sự tương tác giữa chúng là điều cần phải được xem xét khi lựa chọn toà án của nước nào có quyền tài phán. Hiện nay đề xuất về Công ước La Hay về quyền tài phán quốc tế và các bản án dân sự và thương mại có thể sẽ đem lại mức độ hài hoà hoá pháp luật ở tầm toàn cầu.

2. Chọn luật áp dụng

Vấn đề toà án sẽ áp dụng luật nào để giải quyết tranh chấp phát sinh từ một hợp đồng quốc tế được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế có liên quan (ví dụ: các quy định và chỉ thị của EU), và/hoặc các quy định pháp luật quốc gia có liên quan (ví dụ như các quy định tư pháp quốc tế của các nước có liên quan). Câu hỏi theo đó luật nào sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp không phải lúc nào cũng có những câu trả lời giống nhau.

Chọn luật theo CISG

Không có công ước toàn cầu nào đề cập đến vấn đề chọn luật áp dụng cho các hợp đồng thương mại quốc tế. Công ước quan trọng nhất ngoài khuôn khổ EU và đề cập thực chất đến vấn đề chọn luật trong các hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là CISG

3.Chọn luật theo Quy định Rô-ma I

 Ở Anh, theo các quy định truyền thống, ‘luật thích hợp’ (‘luật riêng’) của hợp đồng được xác định trước hết trên cơ sở tham chiếu đến thoả thuận rõ ràng về lựa chọn luật trong hợp đồng kí kết giữa các bên. Chỉ trong trường hợp không có sự lựa chọn rõ ràng hoặc có lựa chọn nhưng sự lựa chọn không có giá trị, khi đó sẽ dựa trên khái niệm ‘luật được lựa chọn ngầm’ hoặc ‘luật có mối liên hệ chặt chẽ nhất’. Ví dụ, Quy định Rô-ma I  quy định rằng hợp đồng được điều chỉnh bởi luật do các bên lựa chọn và việc lựa chọn này có thể được thể hiện rõ ràng trong các điều khoản của hợp đồng. Nếu các bên không đặt điều kiện theo đó việc lựa chọn rõ ràng luật áp dụng phải được thực hiện bằng văn bản hay bằng một hình thức khác, thì một thoả thuận miệng về luật áp dụng, đạt được trong khuôn khổ đàm phán để đi đến kí kết một hợp đồng bằng văn bản, cũng được công nhận là có hiệu lực. Bất kì sự lựa chọn luật rõ ràng nào, thông thường, cũng sẽ được ghi nhận trong một điều khoản của hợp đồng. Khoản 2 Điều 3 của bản Quy định này cho phép thỏa thuận một sự lựa chọn rõ ràng giữa các bên sau khi đã kí kết hợp đồng. Có thể một sự lựa chọn sau khi đã kí kết hợp đồng, thông thường, sẽ có hiệu lực hồi tố, trừ khi các bên thể hiện ý định khác. Trong trường hợp các bên không có sự lựa chọn rõ ràng, Điều 3 Quy định Rô-ma I quy định theo đó toà án sẽ xem xét khả năng có thể chấp nhận một sự lựa chọn ngầm giữa các bên hay không? Theo Điều 3, sự lựa chọn ngầm của các bên chỉ cần ‘được thể hiện rõ ràng trong các điều khoản của hợp đồng hoặc bối cảnh đi đến kí kết hợp đồng’ là đủ. Quy định Rô-ma I phù hợp với các quy định truyền thống của pháp luật Anh sau Chiến tranh thế giới thứ II, và đưa ra cách tiếp cận hạn chế khi xác định có hay không có một sự lựa chọn ngầm giữa các bên về luật điều chỉnh hợp đồng. Trong trường hợp không có sự lựa chọn rõ ràng hay lựa chọn ngầm có hiệu lực giữa các bên, ‘luật thích hợp’ để điều chỉnh hợp đồng sẽ được xác định phù hợp với các quy định dự kiến tại Điều 4 và Điều 5 Quy định Rô-ma I. Những quy định này ưu tiên áp dụng luật của ‘nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất’ với việc thực hiện hợp đồng.

 Luật áp dụng trong trường hợp các bên không lựa chọn

Phù hợp với khoản 1 Điều 4 Quy định Rô-ma I, trong trường hợp các bên không lựa chọn rõ ràng hay lựa chọn ngầm, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật của ‘nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất’ với hợp đồng. Với điều kiện không trái với quy định tại khoản 5 Điều này, hợp đồng được suy đoán là có mối liên hệ chặt chẽ nhất với nước mà vào thời điểm kí kết hợp đồng, bên thụ hưởng việc thực hiện hợp đồng có nơi thường trú (nếu là thể nhân), hoặc nơi mà bên đó có trụ sở chính (nếu là pháp nhân). Tuy nhiên, nếu hợp đồng được kí kết trong quá trình hoạt động thương mại hoặc nghề nghiệp của bên đó, thì ‘nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất’ là nước mà ở đó bên thụ hưởng từ việc thực hiện hợp đồng có hoạt động kinh doanh chính, hoặc nơi mà bên đó có hoạt động kinh doanh mà việc thực hiện hợp đồng được thực hiện thông qua nơi có hoạt động kinh doanh này, chứ không phải nơi có địa điểm kinh doanh chính. Các quy định có phần mập mờ này được đưa ra để điều chỉnh một số tình huống đặc thù. Ví dụ, trong tranh chấp liên quan đến bất động sản, thông thường luật của nước nơi có bất động sản sẽ được áp dụng. Nếu một bên ở vị thế yếu hơn, luật áp dụng sẽ là luật nào có khả năng bảo vệ bên đó nhiều nhất. Tương tự trong trường hợp người tiêu dùng, luật của nước mà người tiêu dùng có nơi thường trú sẽ là luật áp dụng. Suy đoán chung tại khoản 2 Điều 4 không áp dụng đối với các hợp đồng liên quan đến quyền về bất động sản, cũng không áp dụng đối với các hợp đồng vận chuyển hàng hoá. Các suy đoán đặc biệt được quy định tại các khoản 3 và 4

Hợp đồng liên quan đến các quyền về bất động sản. Khoản 3 Điều 4 quy định: Trong phạm vi theo đó đối tượng điều chỉnh của hợp đồng là quyền về bất động sản hoặc quyền sử dụng bất động sản, thì ‘nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất’ được suy đoán là nước nơi có bất động sản. Hợp đồng vận chuyển hàng hoá: Hợp đồng vận chuyển hàng hoá được suy đoán là có mối liên hệ chặt chẽ nhất với nước mà bên vận chuyển có trụ sở kinh doanh chính vào thời điểm kí kết hợp đồng, nếu nước đó cũng là nơi có địa điểm bốc hàng hoặc dỡ hàng, hoặc nơi có trụ sở kinh doanh chính của bên thuê vận chuyển. Nếu nước mà bên vận chuyển có trụ sở kinh doanh chính không phải là một trong những nước có một trong ba yếu tố này, thì suy đoán theo khoản 4 sẽ không được áp dụng.

4.Đề xuất về tống đạt tài liệu tố tụng

 Nếu bị đơn không thường trú trên lãnh thổ của nước thực hiện quyền tài phán, thì trát hầu toà (giấy triệu tập tham gia phiên toà) có thể được tống đạt bên ngoài lãnh thổ nước đó. Nếu công ty kí kết hợp đồng thương mại với một bên nước ngoài, thì cần thiết phải có điều khoản về ‘đại diện tiếp nhận tài liệu tố tụng’ (‘agent for service’). Điều khoản này có nghĩa là bên kia sẽ chỉ định bên thứ ba, thường trú trên lãnh thổ bên kia, thay mặt mình tiếp nhận các tài liệu tố tụng. Sự chỉ định này sẽ loại bỏ sự cần thiết phải tống đạt lệnh triệu tập của toà án bên ngoài lãnh thổ. Điều khoản mẫu về ‘đại diện tố tụng’ có nội dung như sau: ‘X chỉ định không huỷ ngang Y làm đại diện tố tụng cho mình, vì mục đích thay mặt mình tiếp nhận tất cả các giấy tờ và tài liệu tố tụng’. Điều khoản này có lợi cho các công ty Việt Nam khi kí kết hợp đồng thương mại quốc tế với các đối tác nước ngoài. Điều khoản này cũng giúp các doanh nghiệp Việt Nam tránh được những phức tạp và yếu kém trong nhiều vụ việc.

5.Điều khoản về quyền tài phán

Trong các hợp đồng thương mại quốc tế, thường sẽ có tình trạng toà án của nhiều nước đều có quyền tài phán. Để tránh những tranh cãi về việc toà án nào có quyền tài phán đối với vụ kiện, các bên tốt nhất là nên đưa vào hợp đồng điều khoản về toà án có quyền tài phán. Ví dụ: ‘Các bên đồng ý không huỷ ngang rằng toà án Việt Nam có thẩm quyền riêng biệt đối với tất cả các tranh chấp liên quan đến hợp đồng này’. Điều khoản về quyền tài phán sẽ bảo đảm rằng toà án được các bên lựa chọn sẽ giải quyết vụ kiện. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng có những nước đặt ra những quy phạm mệnh lệnh về quyền tài phán của toà án nước này. Nếu một bên bắt đầu khởi kiện ở một nước và bên kia không cho rằng nước đó là sự lựa chọn thích hợp để thực hiện quyền tài phán, thì thông thường, bên đó sẽ phải phản bác quyền tài phán trước khi đi vào biện hộ về nội dung. Bên phản bác cần thiết phải chứng minh tại toà án đầu tiên rằng toà án của nước khác mới là toà án thích hợp nhất để giải quyết vụ kiện. Chỉ khi toà án đầu tiên quyết định rằng toà án của nước khác là thích hợp hơn, thì đơn khởi kiện ban đầu sẽ bị huỷ bỏ và trình tự tố tụng sẽ được khuyến nghị thực hiện ở toà án nước thứ hai. Nếu bên phản bác muốn tiến hành các hành vi tố tụng ở toà án nước thứ hai, trong khi chờ toà án thứ nhất ra quyết định, thì các hành vi này sẽ bị tạm hoãn. Bên tranh chấp kia sẽ có khả năng thành công trong việc yêu cầu tạm hoãn các hành vi tố tụng tại toà án thứ hai, với lập luận rằng có vụ kiện khác đang được giải quyết tại toà án nước khác.

Luật LVN Group( sưu tầm và biên tập)