1.Chọn địa điểm trọng tài và hệ quả của nó

Địa điểm trọng tài là nơi mà các thủ tục trọng tài được tiến hành. Xét dưới khía cạnh này, có thể so sánh địa điểm trọng tài với trụ sở của toà án. Trong tố tụng tại toà án, địa điểm mà thẩm phán kí vào bản án không phải là vấn đề quan trọng, vì bản án này luôn được coi là bản án của toà án, không phụ thuộc vào địa điểm mà thẩm phán kí vào bản án. Ngược lại, trong tố tụng trọng tài, việc chọn địa điểm trọng tài sẽ làm phát sinh một số hệ quả dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Thứ nhất, các quy phạm mệnh lệnh của ‘lex fori’ (pháp luật của nước nơi địa điểm trọng tài được chọn) sẽ được áp dụng. Thứ hai, ở một số nước, các trọng tài viên, cũng giống như các thẩm phán, sẽ áp dụng luật nội dung của nước đó trong quá trình tố tụng. Thứ ba, việc chọn địa điểm trọng tài có thể tác động đến hiệu lực pháp lí của thoả thuận trọng tài. Tuỳ thuộc vào nước được lựa chọn, việc chọn địa điểm trọng tài có thể dẫn đến việc cho phép hoặc ngăn cản toà án của nước đó can thiệp vào quá trình tố tụng trọng tài, hoặc can thiệp để hỗ trợ thủ tục tố tụng trọng tài. Thứ tư, việc chọn địa điểm trọng tài có thể sẽ đem lại lợi thế cho một bên tranh chấp về khía cạnh khoảng cách địa lí, chi phí đi lại và nhu cầu cần thiết trong việc chỉ đạo phối hợp với Luật sư của LVN Group sở tại. Một bên có thể tạo cho mình một vị thế có lợi hơn bên đối phương, và việc lựa chọn này có thể tác động đến khả năng cho một bên bảo vệ vụ kiện của mình dễ dàng hơn hoặc bảo đảm việc có mặt của các nhân chứng của họ tại phiên toà. Việc công nhận phán quyết trọng tài ở một số nước, nơi các bên cư trú, cũng phụ thuộc vào địa điểm trọng tài, mà vụ Keban là một ví dụ.  Việc chọn địa điểm trọng tài cũng dẫn đến một số hệ quả khác. Trong trường hợp các bên không chọn luật tố tụng, cơ quan chỉ định được lựa chọn sẽ có cơ hội tốt để tác động đến việc chọn luật tố tụng. Thậm chí ngay cả khi không thể tác động đến việc này, luật tố tụng được áp dụng cũng phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng của nước nơi địa điểm trọng tài được chọn.  Vì tất cả những lí do này, địa điểm trọng tài là một yếu tố có ý nghĩa quan trọng nhất trong tố tụng trọng tài, và việc lựa chọn nó cần phải được quan tâm đặc biệt.

2. Luật điều chỉnh thoả thuận trọng tài

Trọng tài là một quá trình tố tụng theo thoả thuận và nó phụ thuộc vào thoả thuận trọng tài, với tư cách là một thoả thuận có hiệu lực pháp lí ràng buộc các bên. Các thoả thuận trọng tài không thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước Rô-ma về các nghĩa vụ theo hợp đồng (khoản 2(d) Điều 1). Như vậy, hiệu lực và nội dung của thoả thuận trọng tài được điều chỉnh bằng luật riêng của nó, được xác định bằng nguyên tắc chung của pháp luật. Luật riêng về hiệu lực của thoả thuận trọng tài có thể khác với luật điều chỉnh tranh chấp thực chất giữa các bên. Nếu hợp đồng có quy định rõ ràng về việc chọn luật, thì luật được chọn cũng điều chỉnh điều khoản trọng tài. Nếu hợp đồng không quy định việc chọn luật, thì luật điều chỉnh hợp đồng (và thoả thuận trọng tài) thông thường được hiểu ngầm là luật của nước là nơi có địa điểm trọng tài. Ví dụ, nếu các bên thoả thuận địa điểm trọng tài là nước Anh nhưng không quy định rõ ràng về luật điều chỉnh hợp đồng, thì luật riêng để điều chỉnh thoả thuận trọng tài thông thường sẽ được xác định là luật của nước Anh. Nếu các bên không quy định rõ ràng về việc chọn luật và không chỉ định địa điểm trọng tài, thì luật riêng điều chỉnh thoả thuận trọng tài, theo nguyên tắc chung của pháp luật, là luật của nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng. Chỉ trong những trường hợp ngoại lệ, thì luật điều chỉnh thoả thuận trọng tài có thể khác với luật điều chỉnh thực chất hợp đồng . Trong bối cảnh thi hành phán quyết trọng tài theo Công ước Niu Yoóc, có thể phản đối phán quyết trọng tài dựa trên căn cứ theo đó thoả thuận trọng tài không có hiệu lực (khoản 2(a) Điều V Công ước Niu Y-oóc).

3. Luật điều chỉnh tố tụng trọng tài

Luật điều chỉnh tố tụng trọng tài (‘lex arbitri’), thông thường là luật của nước nơi địa điểm trọng tài được chọn. Trên thực tế, ‘lex arbitri’ chủ yếu là luật tố tụng nhưng đôi lúc cũng có những yếu tố thuộc luật nội dung. Tuy nhiên, không phải lúc nào ranh giới giữa các yếu tố luật nội dung và luật tố tụng cũng thực sự rõ ràng. Quan trọng là phải hiểu được loại vấn đề nào được điều chỉnh bởi ‘lex arbitri’, và luật này tương tác như thế nào với các quy phạm do các bên lựa chọn và luật nội dung điều chỉnh hợp đồng chính. Tố tụng trọng tài bao gồm hai yếu tố: Thứ nhất, trọng tài phải tuân thủ thủ tục tố tụng và quyền hạn của trọng tài được quy định trong thủ tục này (thủ tục nội bộ); và thứ hai, quyền hạn của toà án trong việc hỗ trợ và giám sát hoạt động trọng tài (thủ tục bên ngoài). Quyền hạn hỗ trợ của toà án bao gồm: ví dụ, quyền chỉ định trọng tài viên và ban hành lệnh tạm thời (ví dụ: phong toả tài sản của bị đơn). Quyền hạn giám sát quan trọng nhất của toà án là quyền không cho thi hành phán quyết trọng tài, trong trường hợp trọng tài viên đã vượt quá thẩm quyền xét xử của mình, hoặc đã có những vi phạm nghiêm trọng ảnh hưởng đến hoạt động trọng tài hoặc phán quyết trọng tài. Phạm vi mà toà án thực hiện quyền giám sát đối với trọng tài không giống nhau ở mỗi nước. Các quy phạm xác định luật điều chỉnh tố tụng trọng tài cố gắng đáp ứng hai mục tiêu mà bản thân chúng có thể mâu thuẫn nhau. Một mặt, nước mà địa điểm trọng tài được lựa chọn có lợi ích chính đáng trong việc thực hiện biện pháp kiểm soát đối với quá trình trọng tài, nhằm bảo đảm rằng quá trình tố tụng trọng tài đáp ứng các tiêu chí tối thiểu về tính công bằng. Mặt khác, trọng tài là một quá trình thoả thuận, và như một nguyên tắc chung của pháp luật, các bên có quyền tự do xác định việc giải quyết tranh chấp của họ theo cách nào. Luật trọng tài năm 1996 của Anh có những điều khoản nhằm dung hoà hai mục tiêu mâu thuẫn nêu trên. Theo nguyên tắc chung của pháp luật, các quy định của Luật này sẽ mặc nhiên được ưu tiên áp dụng, nếu nước Anh là địa điểm trọng tài. Như vậy, nếu hai công ty nước ngoài thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại Anh, thì toà án Anh sẽ có quyền loại bỏ trọng tài viên trên cơ sở nghi ngờ về tính khách quan của người này, hoặc không cho thi hành phán quyết trọng tài, nếu một bên đã lừa dối để có được phán quyết này. Phần lớn các quyền hạn của toà án mà Luật này quy định có tính chất tuỳ thuộc vào sự xem xét của toà án, và toà án sẽ căn cứ vào mối liên hệ của các bên với nước Anh khi xem xét liệu có phải thực hiện hay không thực hiện các quyền hạn của toà án theo quy định của Luật nêu trên? Trong trường hợp địa điểm trọng tài ở bên ngoài nước Anh, thì luật của Anh sẽ không phù hợp để áp dụng đối với phần lớn các vấn đề về tố tụng. Tuy nhiên, một vài điều khoản của Luật nêu trên vẫn được áp dụng mà không phụ thuộc vào địa điểm trọng tài. Ví dụ, các quy định liên quan đến việc tạm hoãn xét xử do vi phạm điều khoản trọng tài. Nhưng sẽ không có chuyện không công nhận phán quyết trọng tài nếu địa điểm trọng tài ở ngoài nước Anh, ngay cả khi các bên thoả thuận rõ ràng là luật Anh sẽ áp dụng đối với tố tụng trọng tài. Quy trình pháp luật theo Luật trọng tài năm 1996 của Anh được điều chỉnh bởi Bộ quy tắc tố tụng dân sự (‘CPR’). Để toà án có quyền tài phán, đơn kiện trọng tài phải được tống đạt cho bị đơn phù hợp với các thủ tục tố tụng có liên quan. Trong trường hợp thích hợp, toà án sẽ cho phép việc tống đạt được thực hiện bên ngoài phạm vi tài phán của nước Anh. 

4.Luật điều chỉnh các nội dung thực chất của tranh chấp (luật nội dung)

Các tranh chấp được đưa ra giải quyết bằng trọng tài thường là các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Hội đồng trọng tài sẽ áp dụng các quy định nào để giải quyết tranh chấp? Hội đồng trọng tài sẽ phải áp dụng các quy phạm về chọn luật theo luật của nước nơi đặt địa điểm trọng tài. Trong common law, các trọng tài viên của Anh được giả định là phải áp dụng các quy phạm về chọn luật của các toà án Anh. Quy tắc này là hệ quả của cách tiếp cận truyền thống của Anh, theo đó phán quyết trọng tài có thể bị toà án xem xét lại về mặt pháp lí, bao gồm cả các vấn đề chọn luật. Một số nước khác có cách tiếp  cận khác và luật về trọng tài nước ngoài quy định các nguyên tắc đặc biệt điều chỉnh vấn đề chọn luật áp dụng cho trọng tài. Luật trọng tài năm 1996 của Anh nêu trên đã từ bỏ cách tiếp cận truyền thống của Anh, bằng cách đưa vào luật Anh các quy định mới. Các quy định về chọn luật đề cập đến tình huống: Thứ nhất, các bên đưa ra lựa chọn; thứ hai, các bên lựa chọn ‘các căn cứ khác’; và thứ ba, các bên không đưa ra lựa chọn. Theo nguyên tắc thứ nhất, hội đồng trọng tài sẽ giải quyết tranh chấp ‘phù hợp với luật được các bên lựa chọn, với tư cách là luật áp dụng cho nội dung của tranh chấp’. Học thuyết ‘dẫn chiếu ngược’ (‘renvoi’) bị loại bỏ.  Đôi khi, trọng tài được xem như là cơ chế để tránh những chuẩn mực riêng của pháp luật quốc gia. Vậy thì tại sao các bên không cho phép hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp trên cơ sở tham chiếu các chuẩn mực khác? Có nhiều lựa chọn khác nhau để các bên có thể xem xét. Thứ nhất, nếu một bên thuộc Anh và một bên thuộc Pháp, các bên có thể thoả thuận rằng hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi các nguyên tắc chung áp dụng cho cả pháp luật của Anh và của Pháp, hoặc các bên có thể thoả thuận áp dụng các nguyên tắc chung áp dụng cho cả pháp luật nước X nào đó và công pháp quốc tế. Thứ hai, các bên có thể chọn các quy định không gắn với một hệ thống pháp luật riêng biệt nào. Điều khoản chọn luật có thể quy định, ví dụ: ‘các nguyên tắc pháp luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được chấp nhận ở phạm vi quốc tế’ (ví dụ: lex mercatoria), hoặc một bộ phận các quy tắc phi quốc gia hoặc luật tôn giáo (ví dụ, luật Do thái hoặc luật Sharia Hồi giáo). Thứ ba, các bên có thể mong muốn hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp trên cơ sở tham chiếu các nguyên tắc công bằng hoặc ‘lẽ phải’, hơn là các quy phạm pháp luật nghiêm ngặt. Điều khoản cho phép hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp trên cơ sở ‘công bằng’ được thể hiện bằng thuật ngữ La-tinh là ‘arbitration ex aequo et bono’, hoặc trong tiếng Pháp là ‘amiable composition’. Luật năm 1996 của Anh nêu trên cho phép các bên được lựa chọn bất kì phương án nào. Ngoài ra, Luật này cũng quy định rằng nếu các bên đồng ý, hội đồng trọng tài sẽ giải quyết tranh chấp ‘phù hợp với các căn cứ khác, theo thoả thuận của các bên, hoặc theo sự ấn định của hội đồng trọng tài’. Nếu các bên không chọn luật áp dụng, Luật trọng tài năm 1996 của Anh quy định rằng ‘hội đồng trọng tài sẽ áp dụng luật được xác định trên cơ sở các quy phạm xung đột mà toà cho rằng có thể áp dụng’. Không có gì không bình thường khi các bên, dù không có hoặc có ít liên hệ với nước Anh, nhưng lại chọn nước Anh làm địa điểm trọng tài. Trên thực tế, các bên có thể chọn Luân-đôn làm địa điểm trọng tài, vì đây là địa điểm trung lập. Trong trường hợp này, các trọng tài viên có thể sẽ chọn các quy phạm xung đột được áp dụng chung trong luật quốc gia của các bên. Ví dụ, khi nguyên đơn Xinh-gapo và bị đơn Niu Di-lân chọn nước Anh làm địa điểm trọng tài, hội đồng trọng tài có thể quyết định rằng luật điều chỉnh sẽ được xác định bởi học thuyết ‘luật thích hợp’ (‘proper law’) trong common law, chứ không áp dụng các quy định về chọn luật trong Công ước Rô-ma, bởi vì học thuyết ‘luật thích hợp’ là học thuyết được áp dụng chung ở cả Xinh-ga-po và Niu Di-lân.

5.Ưu điểm của cách tiếp cận này

Ưu điểm của cách tiếp cận này là: nó sẽ giúp giảm thiểu khả năng theo đó kết quả giải quyết tranh chấp sẽ đơn giản chỉ phụ thuộc vào địa điểm nơi diễn ra quá trình trọng tài. Khi không được sự cho phép của các bên, hội đồng trọng tài không có quyền bỏ qua các quy định về chọn luật và giải quyết tranh chấp phù hợp với lex mercatoria hoặc dẫn chiếu đến quan điểm riêng của các trọng tài viên về sự công bằng; hội đồng trọng tài phải áp dụng ‘luật’, một phạm trù không thích hợp để diễn tả các nguyên tắc công bằng hay lex mercatoria. Nếu các bên không lựa chọn luật áp dụng, và các trọng tài viên có quyền tự do lựa chọn các quy phạm xung đột để xác định luật áp dụng theo ý của họ, thì sẽ có nguy cơ là các bên sẽ được phép lẩn tránh các quy phạm mệnh lệnh được áp đặt vì lợi ích công cộng. Trong khi đó, nếu các bên lựa chọn toà án để giải quyết tranh chấp, thì toà án chắc chắn sẽ áp dụng quy phạm mệnh lệnh. Giới hạn mà các trọng tài viên phải tuân thủ các quy phạm mệnh lệnh là vấn đề gây tranh cãi. Thực tế là: nếu các trọng tài viên bỏ qua các quy phạm mệnh lệnh trong luật quốc gia của nước có mối liên hệ chặt chẽ với trọng tài (nước là địa điểm trọng tài, hoặc nước nơi thi hành phán quyết trọng tài), thì sẽ có nhiều khả năng là phán quyết trọng tài sẽ không có hiệu lực pháp luật. Nếu nước Anh là địa điểm trọng tài, thì một bên có thể phản đối hiệu lực của phán quyết trọng tài trên cơ sở có vi phạm nghiêm trọng. Ví dụ, toà án có thể không thừa nhận hiệu lực của phán quyết trọng tài, nếu phán quyết này đi ngược lại trật tự công cộng. Một phán quyết trọng tài không được thừa nhận hiệu lực, bởi quyết định của toà án của nước nơi phán quyết trọng tài được tuyên, sẽ vô hiệu, và việc thi hành phán quyết trọng tài này có thể bị từ chối ở bất kì nước nào là thành viên Công ước Niu Y-oóc. Công ước Niu Y-oóc cũng quy định rằng việc thi hành phán quyết trọng tài có thể bị từ chối, nếu phán quyết này vi phạm trật tự công cộng của nước nơi phán quyết này được yêu cầu thi hành. Ví dụ sau đây sẽ minh hoạ về tác động có thể xảy ra của bảo lưu trật tự công cộng. Hình dung là có hai công ty của Hoa Kỳ kí thoả thuận hạn chế cạnh tranh để thực hiện hợp đồng đặc quyền ở châu Âu. Thoả thuận này vô hiệu theo Điều 81 Hiệp định EC (TEC) (Điều 101 TFEU), nhưng lại có hiệu lực theo luật của bang Niu Y-oóc, là luật áp dụng theo sự lựa chọn của các bên. Khi xảy ra tranh chấp, các bên đưa ra giải quyết tại trọng tài ở Anh. Kết quả trọng tài sẽ như thế nào, nếu trọng tài Anh công nhận hiệu lực của thoả thuận này dựa trên cơ sở rằng thoả thuận này có hiệu lực theo luật của bang Niu Y-oóc? Câu trả lời sẽ là: bên thua kiện được phép hi vọng rằng hiệu lực của phán quyết trọng tài sẽ không được thừa nhận, vì thoả thuận hạn chế cạnh tranh này vi phạm trật tự công cộng của nước Anh (bao gồm cả trật tự công cộng của châu Âu). Trên cơ sở phân tích này, các trọng tài viên sẽ phải cân nhắc các quy phạm mệnh lệnh mà các bên có thể phải áp dụng, nếu không muốn toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài trở lên vô ích về thời gian và tiền bạc, khi mà cuối cùng, phán quyết trọng tài lại không được thi hành (vì phán quyết này vi phạm trật tự công cộng của nước là địa điểm trọng tài). Khi các bên không chọn luật áp dụng, thì việc chọn luật áp dụng trong trọng tài quốc tế thường xuyên là một trong những vấn đề khó khăn nhất mà các trọng tài viên phải quyết định. Thay thế cho pháp luật quốc gia, các trọng tài viên có thể áp dụng các nguyên tắc của luật quốc tế, các nguyên tắc chung của pháp luật quốc gia (‘in foro domestico’), hoặc lex mercatoria.

Luật LVN Group( sưu tầm và biên tập)