1. Hiểu thế nào về giới hạn quyền sở hữu trí tuệ

Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ. Tuy nhiên, trên thực tế quyền sở hữu trí tuệ có thể bị giới hạn trong một số trường hợp nhất định nhằm cân bằng lợi ích quyền tác giả và lợi ích chung của cộng đồng.

Căn cứ vào quy định của Luật sở hữu trí tuệ thì quyền sở hữu trí tuệ bị giới hạn như sau:

+ Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ.

Việc tuân thủ pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với việc duy trì trật tự xã hội. Khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trao quyền sở hữu trí tuệ, các chủ thể cần và chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ. Ngoài phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ thì các chủ thể không có các quyền khác đối với tác phẩm đó.

+ Việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Bất cứ một hoạt động nào của các cá nhân hay tổ chức đều không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan chứ không riêng đối với việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ. Các hành vi vi phạm sẽ bị xủ lý theo quy định của pháp luật hiện hành. 

+ Trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà nước, xã hội quy định tại Luật sở hữu trí tuệ, Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những điều kiện phù hợp; việc giới hạn quyền đối với sáng chế thuộc bí mật nhà nước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Đối với sáng chế thuộc bí mật nhà nước cần phải được thực hiện theo đúng quy định của Chính phủ và cần phải nhằm mục đích để bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà nước, và xã hội.

2. Các trường hợp giới hạn quyền tác giả

Để quyền tác giả và lợi ích chung của cộng đồng  được hài hòa với nhau, pháp luật quy định các trường hợp hạn chế của quyền tác giả đối với một số hành vi sử dụng, khai thác quyền tác giả. Việc giới hạn quyền quy định trong những trường hợp nhất định, cá nhân, tổ chức khác có quyền sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao; sử dụng tác phẩm sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao.

2.1. Sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao

Theo Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ, các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:

– Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân; (luật quy định cụ thể số lượng sao chép là một bản và nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy cá nhân, không nhằm mục đích thương mại.)

– Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình;Việc trích dẫn tác phẩm phải đáp ứng điều kiện: Phần trích dẫn chỉ nhằm mục đích giới thiệu, bình luận hoặc làm sáng tỏ vấn đề được đề cập trong tác phẩm của mình và phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng để trích dẫn không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn

– Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;

– Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;

– Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu; (Đây là việc sao chép không quá một bản. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số)

– Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;

– Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;

– Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứngdụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;

– Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;

– Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.()chỉ áp dụng cho trường hợp nhập khẩu không quá một bản.

 

Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân trích dẫn tác phẩm còn phải đáp ứng các điều kiện:

– Không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm;

– Không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả;

– Phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

Ngoài ra, tính hợp lý của việc trích dẫn tác phẩm còn căn cứ vào số lượng và thực chất của phần trích dẫn từ tác phẩm được sử dụng không gây phương hại tới quyền tác giả đối với tác phẩm được sử dụng để trích dẫn; phù hợp với tính chất, đặc điểm của loại hình tác phẩm được sử dụng để trích dẫn.

Tuy nhiên cần lưu ý, việc trích dẫn tác phẩm nêu trên không áp dụng đối với việc sao lại tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.

2.2. Sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao

Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao quy định tại Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ gồm:

Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thoả thuận.

Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.

Lưu ý:

– Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không được làm phương hại đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm. 

– Việc sử dụng tác phẩm nêu trên không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh, chương chình máy tính,tác phẩm tạo hình, tác phẩm kiến trúc

Như vậy, pháp luật bảo hộ cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả những quyền mang tính độc quyền. Bên cạnh đó, để hài hòa lợi ích quyền tác giả và lợi ích chung của cộng đồng,các trường hợp hạn chế quyền tác giả đã được quy định cụ thể nêu ở trên

3. Quy định về giới hạn quyền tác giả trong việc sao chép và trích dẫn tác phẩm

Như đã nói ở trên pháp luật đã đặt ra giới hạn về độc quyền của chủ sở hữu quyền, quyền tác giả nhưng ở một góc độ nào đó, pháp luật vẫn đang cố gắng bảo vệ quyền lợi cho người sáng tạo hoặc đầu tư tạo ra tác phẩm. Điều này cũng đang hỗ trợ cho tác giả đem đến tác phẩm thật sự có giá trị cho xã hội, như vậy chỉ khi nào tác phẩm được công bố thì các giới hạn quyền mới được đặt ra.

Tại Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao hợp lý để đáp ứng nhu cầu của công chúng tùy theo bản chất của tác phẩm và công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc.

 Luật Quyền tác giả Thụy Điển ghi nhận tại Điều 8 về tác phẩm được coi là công bố khi các bản sao với sự đồng ý của tác giả được đưa ra bán hoặc phân phối tới công chúng dưới các hình thức. Đối với Luật Bản quyền Hoa Kỳ ghi nhận khá chi tiết về hành vi công bố tác phẩm, khi đó “Công bố” là việc phân phối các bản sao hoặc bản ghi của tác phẩm tới công chúng thông qua việc bán, cho thuê, cho mượn hoặc các hình thức chuyển nhượng quyền sở hữu khác. Việc chào hàng phân phối các phiên bản hoặc bản ghi của tác phẩm trước một nhóm người nhằm mục đích phân phối tiếp theo việc trình diễn hoặc trình bày công cộng tác phẩm là đã cấu thành hành vi công bố. Tuy nhiên bản thân việc trình diễn hoặc trình bày trước công chúng không cấu thành hành vi công bố. Trong Luật Quyền tác giả Nhật Bản tại Điều 4 ghi nhận về hành vi công bố tác phẩm cũng tương tự như các văn bản trên tuy nhiên khác với Luật Bản quyền Hoa Kỳ về việc vẫn xem hành vi trình diễn hoặc trình bày trước công chúng, bao gồm cả trường hợp tác phẩm kiến trúc được xây dựng bởi chủ sở hữu quyền tác giả hoặc được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép là hành vi công bố tác phẩm. Dường như việc xác định hành vi nào được xem là công bố tùy thuộc vào quy định mỗi quốc gia, tuy nhiên, so với Việt Nam hiện nay việc thừa nhận tác phẩm đã được công bố chỉ dựa vào số lượng bản sao cung ứng đến công chúng số lượng hợp lý mà không thừa nhận việc trình diễn, trưng bày tác phẩm trước công chúng.

 

4.  Ý nghĩa việc giới hạn quyền tác giả

Bản chất của nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và lợi ích xã hội là sự dung hoà quyền lợi giữa các bên nhằm tạo ra điều kiện tồn tại và phát triển cho chính các bên. Mỗi bên sẽ phải hy sinh một phần quyền lợi của mình để hướng tới lợi ích chung lớn hơn, mà sâu xa hơn chính là tạo ra một xã hội phát triển bền vững, công bằng và bình đẳng.
 
Vì vậy, việc giới hạn quyền tác giả đem lại ý nghĩa vô cùng quan trọng trong quá trình bảo vệ và khai thác quyền tác giả, nhằm hướng tới mục đích bảo vệ lợi ích cho cả hai bên để hướng tới xã hội tri thức. Nhà nước không có cơ chế bảo hộ thích hợp quyền của chủ sở hữu trí tuệ thì không thể khuyến khích sự sáng tạo; tuy nhiên nếu chỉ hướng tới bảo vệ tác giả thì có thể dẫn đến sự lạm dụng độc quyền và ảnh hưởng đến việc tiếp cận tri thức của đông đảo công chúng.
 
Như vậy, việc giới hạn quyền tác giả có ý nghĩa rất quan trọng, vì vậy mà pháp luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đã quy định giới hạn cơ bản liên quan đến hành vi khai thác, sử dụng tác phẩm nhằm bảo vệ tối đa lợi ích của các chủ thể có liên quan.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến bài viết Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại.

Trân trọng./.

Công ty luật LVN Group (biên tập)