Về cái gọi là “giá trị châu Á” để kết tội các nhà đầu cơ tài chính và toàn cầu hoá, thì ở phương Tây người ta lại tăng âm lượng về các giá trị dân chủ. Người ta cho rằng chính sự bảo trợ từ phía nhà nước đã khiến cho hoạt động của hệ thống ngân hàng bị bóp méo, điều sẽ dẫn đến sự biến dạng và cuối cùng là sự đổ vỡ không tránh khỏi của nền tài chính. Những bài học này được các chuyên gia kinh tế của

Khi các tập đoàn khổng lồ Enron, Kmart, Global Crossing, Worldcom… sụp đổ, người ta lại lên án sự cấu kết không minh bạch của các công ty kiểm toán với giới kinh doanh. Vị công tố viên hăng hái nhất không phải ai khác mà chính là tổng thống đương nhiệm của siêu cường duy nhất hiện nay, ông George W. Bush . “Đừng làm trò gian lận với các con số” – tổng thống Hoa Kỳ phát biểu như vậy và ông đề nghị Bộ Tư pháp thẳng tay với bất cứ công ty nào có hành vi tham nhũng hoặc lừa đảo. Trong một buổi vận động gây quỹ cho đảng Cộng Hoà, ông chỉ tên đích danh Worldcom và cam kết rằng ông sẽ không nương tay với những hành vi quản lý tài chính không minh bạch, rằng ông sẽ ủng hộ những biện pháp quản lý kế toán chặt chẽ hơn, trong đó có việc thành lập một cơ quan kiểm soát mới.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:  1900.0191

Mối liên minh mờ ám giữa quyền lực chính trị và quyền lực tài chính, sự câu kết không minh bạch giữa các công ty kiểm toán với giới kinh doanh là có thật, là rất đáng lên án. Nhưng tôi không cho rằng những biện pháp, cho dù thông minh và quyết đoán, của Worldbank hay tổng thống Bush là đủ để giải quyết tận gốc vấn đề. Đơn giản vì đó chỉ là những giải pháp tình thế, trong khi những hiện tượng trên hoàn toàn không phải là riêng lẻ hoặc ngẫu nhiên. Nếu ngược dòng lịch sử, ta có thể thấy rằng cuộc khủng hoảng Đông Á chỉ là sự nối tiếp của Mexico, và đến lượt mình, nó lại được nối tiếp bởi Argentina, trường hợp mà theo tôi sẽ không phải là cuối cùng trong danh sách. Sự sụp đổ của các công ty không lồ cũng vậy. Trước Enron là Daewoo, Hanbo và các tập đoàn tài chính Nhật Bản. Còn sau Worldcom chắc chắn cũng chẳng thiếu các “đại gia”.

Điều chúng ta quan tâm ở đây mối liên hệ giữa các hiện tượng và nguyên nhân sâu xa của nó.  Nguyên nhân sâu xa ấy, theo tôi, chính là sự thay đổi về chất của nền kinh tế nhân loại: sự chuyển từ nền kinh tế dựa trên những yếu tố và thước đo vật chất sang một nền kinh tế dựa trên những yếu tố và thức đo tinh thần, nói cách khác, từ nền kinh tế duy vật sang một nền kinh tế duy tâm.

Để cho dễ hiểu, tôi xin bắt đầu từ một khái niệm cơ sở: khái niệm về giá trị. Kinh tế học, nói một cách vắn tắt, là môn khoa học nghiên cứu các quy luật hình thành, lưu chuyển và thay đổi của các giá trị, còn nền kinh tế là tập hợp những cơ sở vật chất và xã hội ở một trình độ phát triển nhất định có nhiệm vụ tạo ra, thay đổi và dịch chuyển các giá trị ấy. Nhưng để tạo ra, thay đổi và dịch chuyển các giá trị, cũng như để nghiên cứu các quy luật hình thành, lưu chuyển và thay đổi của chúng, người ta phải dựa trên một thước đo. Nếu không có thước đo, chúng ta sẽ không thể xét đoán được các hiện tượng và sự vật, bởi lẽ chúng ta không thể lượng hoá được sự tăng giảm hay mất đi cũng như sự duy trì và lưu chuyển của nó. Không phải ngầu nhiên mà Adam Smith đã dành nhiều trang ngay trong phần đầu  cuốn The Wealth of Nations (Sự thịnh vượng của các quốc gia) nổi tiếng để nói về giá trị. Sự thay đổi của thước đo giá trị phản ánh sự thay đổi bản chất của nền kinh tế tế giới. Nói rộng ra, lịch sử phát triển của văn minh nhân loại cũng là lịch sử thay đổi của những thước đo và phương pháp đo lường.

Chúng ta đều biết rằng kể từ buổi bình minh của lịch sử, nền kinh tế nhân loại đã tiến hoá dần khỏi trạng thái sơ khai, tự cung tự cấp bằng sự gia tăng phân công lao động. Ngay trong giai đoạn đầu tiên của sự phát triển, người ta đã phải tiến hành trao đổi. Con người không chỉ và không thể sống chỉ bằng lao động của mình. Sự trao đổi ban đầu được thực hiện trực tiếp, vật đổi vật, chẳng hạn cái rìu đổi lấy con cừu, như trong ví dụ kinh điển của Marx. Khi trao đổi như vậy, người ta ước lượng giá trị của vật đem trao đổi qua những đặc tính rất vật lý trực quan, cụ thể, hữu hình của vật. Về bản chất, có thể nói rằng trong truờng hợp này thước đo giá trị chính là vật đem trao đổi.

Sự gia tăng các hoạt động kinh tế khiến cho các loại đồ vật được đem trao đổi ngày càng đa dạng, số lượng đồ vật trao đổi và khoảng cách của hoạt động này cũng ngày một lớn. Sự trao đổi trực tiếp ngày càng bất tiện. Bây giờ, thay vì trao đổi trực tiếp các vật, người ta sử dụng một vật trung gian, được coi là ngang giá, ví dụ người ta có thể không đổi cái rìu lấy con cừu ngay mà người ta đổi lấy một cái sừng hươu, rồi cái sừng hươu lại cho phép họ đổi lầy con cừu hay bất cứ đồ vật được coi là ngang giá nào khác. Như vậy, những thước đo giá trị theo nghĩa đích thực của chúng đã xuất hiện: từ nay giá trị của đồ vật bắt đầu được ước lượng một cách gián tiếp, thông qua việc quy chiếu đến giá trị một vật khác.

Do những đặc tính của chúng, kim loại, đặc biệt là vàng, dần dần được chọn sử dụng rộng rãi làm vật ngang giá. Đó chính là sự ra đời của loại tiền đầu tiên – tiền vàng (hoặc các loại kim loại quý khác). Sự ra đời của tiền đồng nghĩa với sự trưởng thành của thương mại, đồng thời cũng đánh dấu một bước tiếp theo của xu hướng tượng trưng hoá các giá trị vật chất. Kể từ đó, giá trị của mọi thứ, bất luận chúng có nguồn gốc, bản chất và công dụng gì, đều được quy về những đơn vị giá trị của vàng.

Chẳng bao lâu, tiền giấy xuất hiện. Và nếu như ban đầu tiền giấy được đảm bảo bằng vàng, thì về sau nó chỉ còn là những tờ giấy được quy ước về giá trị mà thôi. Đến khi đó, tiền giấy, với tư cách là thước đo giá trị, đã trở nên khá xa các đặc tính vật chất của hàng hoá. Nhưng đến khi xuất hiện thị trường chứng khoán thì ngay cả cái đồng tiền bằng giấy kia cũng biến mất, nhường chỗ một thứ tiền ảo, thực ra chỉ là những ký hiệu, những thoả thuận mà thôi. Như vậy, trong thế giới hiện đại thước đo giá trị, và chính giá trị nữa, đã thoát ly khỏi những đặc tính hữu hình của hàng hoá và chủ yếu dựa vào những yếu tố tinh thần: nó đã bị duy tâm hoá. Thông qua thị trường chứng khoán, người ta tiến hành những khoản đầu tư dựa trên lòng tin, chứ không phải bằng tiền, bằng vàng, hay các loại vật chất khác. Chỉ bằng một cam kết trên giấy, hay thậm chí trên internet, người ta có thể hoàn thành một phi vụ thương mại, để rồi sử dụng kết quả của nó vào một phi vụ khác. Quá trình này có thể được kéo dài bất tận và nhân số vốn lưu chuyển lên nhiều lần trong khi thậm chí chưa có khoản tiền nào được giao trên thực tế. Tài sản của các công ty, các các nhân và các quốc gia cũng được đo bằng giá trị các cổ phiếu mà giá trị của nó không ai có thể biết chắc. Một ông chủ có thể chỉ vì một lời đồn mà mất phần lớn tài sản. Một quốc gia đang dư dật chỉ sau một đêm có thể rơi vào tình cảnh khốn đốn. Vậy mà nhà xưởng, đường xá, tàu bè, con người và chính quốc gia vẫn thế. Bây giờ không một nhà kinh doanh nào, không một quốc gia nào biết rõ mình có bao nhiêu tài sản. Điều này giải thích vì sao các công ty kiểm toán đã hoàn toàn bất lực: họ vẫn tiếp tục tính toán với những thuớc đo cũ kỹ, vẫn vật lộn với những cuốn sổ thu chi, xuất nhập, thực ra đang lừa dối họ. Tôi tin rằng sự lạc hậu là điều đáng trách nhất của họ, còn sự cấu kết với giới kinh doanh chỉ là hành vi đen tối của một phần nhỏ trong số họ mà thôi.

Những hiện tượng này thực ra không phải hoàn toàn mới. Cái gọi là nền kinh tế bong bóng, chẳng hạn, thực ra cũng chỉ là một cách nhìn chưa hoàn chỉnh về nền kinh tế mới – tôi xin gọi là nền kinh tế duy tâm, tức nền kinh tế phụ thuộc vào những yếu tố tinh thần của con người (xin chớ nhầm với mê tín dị đoan). Kinh tế bong bóng không phải là hiện tượng thuần tuý tiêu cực nhiều người quan niệm. Ngược lại, nó là nhân tố quyết định dẫn đến sự phát triển  thần kỳ của một số nước trong mấy thập kỷ vừa qua. Hiện tượng này, ở một quy mô nhỏ hơn, cũng có thể quan sát được ở Việt Nam, trong cái gọi là những “cơn sốt bất động sản” vừa qua, chẳng hạn. Những người nông dân đã sống ngàn đời nay trên mảnh đất mà lúa, hoa hay bất kỳ thứ hoa màu nào cũng không giúp họ thoát nổi cảnh nghèo. Vậy mà đột nhiên người ta bảo rằng một nghìn mét đất của họ là mười nhìn cây vàng! Họ đã trở thành tỉ phú trong chớp mắt, và cùng với họ, sức mua của xã hội cũng như tài sản quốc gia đã tăng gấp bội. Kinh tế tri thức cũng là một cách nhìn phiến diện khác, bởi tri thức chỉ là một trong những yếu tố tinh thần quyết định giá trị, và cách hiểu về kinh tế tri thức cũng mới chỉ giới hạn trong quá trình sản xuất – lưu thông hàng hoá và cung cấp dịch vụ mà chưa thấy được vai trò của quá trình tiêu thụ, cũng là một quá trình sinh ra giá trị. Nhưng chúng ta sẽ đề cập đến điều đó trong một dịp khác. Phạm vi bài viết này chỉ cho phép chúng tôi nói thêm rằng ngay cả khái niệm nền kinh tế duy tâm cũng chỉ là một biểu hiện của nền nền văn minh mới, nền văn minh duy tâm, trong đó các yếu tố duy tâm đóng vai trò chủ đạo. 

Xu hướng duy tâm hoá nền kinh tế buộc những người đứng đầu các quốc gia phải thay đổi triệt để tư duy trong việc hoạch định các chiến lược phát triển. Bây giờ, sự phát triển của các quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các nguồn vốn hay tài nguyên mà còn – và chủ yếu – vào khả năng của các nhà lãnh đạo quốc gia trong việc tạo dựng và gìn giữ tâm lý thịnh vượng của dân chúng./.

Tác Giả: Ngô Tự Lập ([email protected])

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích nghiên cứu, giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

DỊCH VỤ TƯ VẤN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN:

1. Tư vấn xin cấp phép đầu tư;

2. Tư vấn cấp giấy chứng nhận đầu tư;

3. Tư vấn thành lập doanh nghiệp liên doanh;

4. Các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư trong nước;

5. Tư vấn thành lập công ty liên doanh tại Việt Nam;

6. Dịch vụ tư vấn Cấp thẻ tạm trú cho người nước ngoài;