Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính hiện hành cũng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật thời gian qua, chẳng hạn như quy định về thẩm quyền giải quyết của Toà hành chính mới giới hạn giải quyết 22 loại việc, còn về loại việc khác phát sinh gây bức xúc trong thực tế… thì vẫn chưa được quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Ngày 02 tháng 6 năm 2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó một trong các nhiệm vụ được xác định là “… mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính; đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Toà án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân là cơ quan công quyền trước tòa án…”. Nghị quyết 49/NQ-TW nói trên cũng đặt ra yêu cầu “xây dựng cơ chế bảo đảm cho mọi bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, các cơ quan hành chính vi phạm bị xử lý theo phán quyết của Toà án phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Với tính chất phức tạp của các khiếu kiện hành chính mà một bên là cá nhân, tổ chức, còn bên kia là cơ quan hành chính nhà nước thì việc xây dựng và ban hành một văn bản quy phạm pháp luật quy định về tố tụng hành chính dưới hình thức văn bản luật nhằm tạo lập khung pháp lý cơ bản, giải quyết những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về tố tụng hành chính, bảo đảm thực hiện thể chế hóa đầy đủ và toàn diện quan điểm, chủ trương của Đảng đã nêu tại Nghị quyết số 49/NQ-TW, bảo đảm tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật, góp phần bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích chính đáng của người dân là hết sức cần thiết.
Tòa hành chính được thành lập và đi vào hoạt động đến nay đã được hơn 15 năm. Qua thực tiễn hoạt động của Toà hành chính những năm qua, tham gia ý kiến đối với Dự án Luật Tố tụng hành chính, Chính phủ cho rằng thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cần được mở rộng để giải quyết các khiếu nại phát sinh trong thực tiễn, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay. Vấn đề mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính đã được đề cập trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, Chính phủ cho rằng mọi khiếu nại sau khi đã được giải quyết bằng con đường hành chính mà cá nhân, tổ chức không đồng ý đều có thể khởi kiện ra tòa án. Việc giải quyết khiếu kiện bằng con đường tư pháp là yêu cầu thực tế của Việt Nam cũng như yêu cầu của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) khi Việt Nam đã là thành viên. Trên tinh thần đó, tham gia ý kiến đối với Dự án Luật Tố tụng hành chính, Chính phủ nhất trí với quan điểm thứ hai là thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính cần được qui định theo phương pháp loại trừ để bảo đảm tính khoa học, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật hiện hành về vấn đề này, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Về thủ tục thỏa thuận trong tố tụng hành chính: Theo qui định của pháp luật hiện hành, trước khi khởi kiện ra tòa, cá nhân, tổ chức phải khiếu nại; trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì cá nhân, tổ chức đó mới khởi kiện ra tòa. Điều đó chứng tỏ qui định về thủ tục thỏa thuận trong tố tụng hành chính là không thật sự cần thiết và không khả thi, đồng thời sẽ kéo dài thời gian giải quyết vụ việc. Theo chúng tôi, qui định của Pháp lệnh hiện hành tại Điều 3 hợp lý hơn. Nội dung Điều này quy định rõ: trong qua trình giải quyết vụ án hành chính, tòa án tạo điều kiện để các bên có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Người khởi kiện có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện. Người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính… Việc thỏa thuận không thể coi là thủ tục bắt buộc trước khi tòa án chuẩn bị xét xử mà tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể khi người bị kiện sửa đổi quyết định hành chính bị khiếu kiện và người khởi kiện đồng ý với quyết định sửa đổi đó thì tòa án có thể xem xét chấm dứt giải quyết vụ án.
Ngoài những vấn đề còn có ý kiến khác nhau vừa nêu, tham gia ý kiến đối với Dự án Luật Tố tụng hành chính, Chính phủ cho rằng Dự thảo Luật còn một số vấn đề sau đây cần được tiếp tục nghiên cứu, cân nhắc:
Chính phủ cho rằng Dự thảo 3 Luật tố tụng hành chính lần này đã bổ sung nhiều quy định về thủ tục giải quyết vụ án hành chính. Tuy nhiên, đối với Dự án Luật Tố tụng hành chính, Chính phủ nhận thấy Dự thảo Luật chưa quy định về cơ sở pháp lý để căn cứ vào đó mà Toà án ra phán quyết về quyết định hành chính, hành vi hành chính là bất hợp pháp. Chẳng hạn như, văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất về lĩnh vực hoặc vấn đề trực tiếp liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính mà tòa án xem xét giải quyết khiếu kiện là cơ sở pháp lý để Toà án căn cứ vào đó xem xét và coi quyết định hành chính là bất hợp pháp. Theo Chính phủ, đây là một trong những vấn đề quan trọng, cần được quy định trong Luật tố tụng hành chính.
Về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính: khoản 1 Điều 7 của Dự thảo Luật quy định người khởi kiện phải cung cấp bản sao quyết định hành chính và cung cấp các chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Chính phủ nhận thấy bên khởi kiện là cá nhân, tổ chức thường không có điều kiện cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, do đó, việc Dự thảo Luật quy định người khởi kiện phải cung cấp chứng cứ là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, chỉnh lý. Theo Chính phủ, trong trường hợp này, để giải quyết đúng đắn, khách quan vụ việc, Toà án cần yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp tài liệu, chứng cứ để toà án xem xét, giải quyết. Trong trường hợp cần thiết, Toà án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ như quy định tại khoản 4 Điều 7 Dự thảo luật để giải quyết vụ việc. Theo Chính phủ, khoản 4 Điều 7 Dự thảo luật cần quy định cụ thể các trường hợp Toà án thu thập chứng cứ hoặc quy định cụ thể các trường hợp mà tòa án thu thập chứng cứ được quy định tại các điều, khoản nào của Luật.
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi: 1900.0191
Do vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xét xử các vụ án hành chính, nội dung của Chương XII cần quy định cụ thể hơn về cơ chế bảo đảm cho việc thi hành án. Dự thảo Luật cũng cần bổ sung qui định cụ thể về trách nhiệm của Chính phủ trong việc giao cho một cơ quan cụ thể thuộc Chính phủ để giúp Chính phủ trong việc quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính vì thực tế hiện nay chưa có cơ quan nào đảm nhiệm việc này khiến cho việc tổng hợp, theo dõi thi hành bản án, quyết định của Tòa hành chính bị buông lỏng. Theo Chính phủ, nếu cứ tiếp tục quy định chung chung như Dự thảo Luật (khoản 5 Điều 159) thì sẽ không khắc phục được tình trạng bất cập, hạn chế hiện nay, trong khi theo quy định tại Điều 1 Dự thảo Luật tố tụng hành chính thì vấn đề thi hành án hành chính là một trong những nội dung thuộc p
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Số: 07/BC-TANDTC |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 24 tháng 5 năm 2010 |
BÁO CÁO
Giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật tố tụng hành chính
––––––––––––––––
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Căn cứ vào Nghị quyết số 31/2009/QH12 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007-2011); thực hiện sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao đã phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng Dự thảo Luật tố tụng hành chính. Dự thảo Luật tố tụng hành chính đã được Uỷ ban tư pháp của Quốc hội thẩm tra ngày 20-4-2010 và được Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến ngày 10-5-2010.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao đã nghiên cứu các ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban tư pháp của Quốc hội và xin được giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật tố tụng hành chính như sau:
I. VỀ Ý KIẾN CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI VÀ BÁO CÁO THẨM TRA CỦA UỶ BAN TƯ PHÁP CỦA QUỐC HỘI
1. Về ý kiến đề nghị quy định ngay trong Luật những quyết định hành chính, hành vi hành chính nào thuộc các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án mà không nên quy định giao Chính phủ liệt kê (Điều 25 Dự thảo Luật).
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao đề nghị giữ nguyên như Dự thảo Luật, vì các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao liên quan đến chủ quyền an ninh quốc gia trên tất cả các mặt; do đó, nếu quy định cứng trong Luật thì trong thực tế có thể có những việc phát sinh mà Luật không lường trước được và sẽ rất khó giải quyết. Vì vậy, để Chính phủ quy định danh mục các loại quyết định hành chính, hành vi hành chính trong các lĩnh vực này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án sẽ linh hoạt hơn.
2. Về ý kiến đề nghị làm rõ hơn và thể hiện ngay trong Dự thảo Luật “các hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước” không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án là những hành vi hành chính nào để tránh cách hiểu không thống nhất và khó vận dụng khi Dự thảo Luật được Quốc hội ban hành.
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao xin được giải trình thêm như sau:
Hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước là những hành vi hành chính liên quan đến các quan hệ nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước, phân công trách nhiệm giữa thủ trưởng và nhân viên, phân công trách nhiệm giữa các bộ phận trong cơ quan hành chính nhà nước (ví dụ: chỉ đạo của lãnh đạo một cơ quan hành chính về việc điều chuyển một cán bộ từ bộ phận này sang làm việc ở bộ phận khác trong cơ quan hành chính đó; điều chuyển cán bộ từ địa bàn này sang làm việc ở địa bàn khác; giao phần việc của công chức này cho công chức khác giải quyết…). Nếu cũng coi những hành vi hành chính này là đối tượng được khởi kiện vụ án hành chính thì sẽ dẫn đến việc khởi kiện tràn lan và có thể bị lạm dụng, làm mất ổn định về tổ chức của cơ quan hành chính nhà nước (khi công chức không đồng tình với chỉ đạo, phân công của lãnh đạo cơ quan là khởi kiện ra Toà án). Bên cạnh đó, nếu coi các hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước là đối tượng được khởi kiện vụ án hành chính thì có thể gây khó khăn cho người dân khi quyết định khởi kiện (chẳng hạn: trường hợp Trưởng phòng của một cơ quan hành chính nhà nước không thực hiện nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của mình mà gây thiệt hại cho người dân; tuy nhiên, việc không thực hiện trách nhiệm của cán bộ đó lại do chỉ đạo của cấp trên của họ. Trường hợp này nếu coi hành vi hành chính nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước cũng là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính thì sẽ khó khăn cho người dân khi quyết định khởi kiện hành vi không thực hiện trách nhiệm của Trưởng phòng hay khởi kiện việc chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước).
Việc làm rõ thêm khái niệm về hành vi hành chính này là cần thiết. Tuy nhiên, để thể hiện rõ được khái niệm này thì cần thiết phải có những ví dụ cụ thể. Vì vậy, Toà án nhân dân tối cao đề nghị để hướng dẫn bằng văn bản dưới luật như Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hoặc Thông tư liên tịch.
3. Về ý kiến đề nghị việc giải thích thuật ngữ “hành vi hành chính” cần thống nhất với Luật khiếu nại, tố cáo, vì việc giải thích thuật ngữ về “hành vi hành chính” là hành vi… thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ… tại khoản 2 Điều 2 Dự thảo Luật khác với giải thích về khái niệm này của Luật khiếu nại, tố cáo.
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao đề nghị giữ nguyên như Dự thảo Luật vì khái niệm này đã được Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính hiện hành quy định (khoản 2 Điều 4) và việc giải thích thuật ngữ như Dự thảo Luật là để khẳng định rằng hành vi hành chính có thể là bằng hành động hoặc không hành động. Các vấn đề cụ thể và chi tiết hơn có thể giải thích, hướng dẫn bằng Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sau khi Luật được Quốc hội thông qua.
4. Về ý kiến đề nghị quy định cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lựa chọn khiếu nại tại cơ quan hành chính hay khởi kiện vụ án tại Toà án mà không bắt buộc phải qua thủ tục khiếu nại (Điều 67 Dự thảo Luật).
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao xin được đề xuất 2 phương án như sau:
Phương án 1: Quy định như Dự thảo Luật; tuy nhiên, chỉ giới hạn điều kiện khởi kiện phải qua thủ tục khiếu nại đối với các lĩnh vực thuế, sở hữu trí tuệ và quản lý đất đai; bởi lẽ theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính hiện hành thì điều kiện khởi kiện là phải qua thủ tục khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại; một số trường hợp phải có quyết định giải quyết khiếu nại thì mới được khởi kiện ra Toà án; một số trường hợp đã khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì không được quyền khởi kiện ra Toà án. Như vậy, quy định như Dự thảo Luật là đã mở rộng quyền khởi kiện vụ án hành chính của cá nhân, cơ quan, tổ chức (cá nhân, cơ quan, tổ chức có thể khởi kiện vụ án hành chính mà không cần qua thủ tục khiếu nại, trừ một số loại việc). Việc yêu cầu phải qua thủ tục khiếu nại đối với các quyết định hành chính thuộc các lĩnh vực thuế, sở hữu trí tuệ, quản lý đất đai, vì đây là các lĩnh vực phức tạp, có tính chuyên môn cao. Quy định cơ quan hành chính phải giải quyết khiếu nại trước, một mặt là tạo điều kiện để cơ quan hành chính xem xét lại trách nhiệm của mình, mặt khác có thêm cơ sở để Toà án xem xét, giải quyết khiếu kiện. Quy định như vậy cũng là nhằm bảo đảm chất lượng giải quyết các vụ án hành chính.
Đối với hành vi hành chính, như đã nêu trong Tờ trình Dự án Luật, ở bất cứ lĩnh vực nào thì cũng cần qua thủ tục khiếu nại trước, vì việc thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cơ quan hành chính, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nên để cơ quan hành chính đó xem xét trước, tránh việc khiếu kiện tràn lan và việc để cơ quan hành chính giải quyết khiếu nại đối với hành vi hành chính trước khi cho phép khởi kiện ra Toà án sẽ tạo điều kiện cho các đương sự có thêm chứng cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Theo phương án này thì khoản 2 Điều 67 Dự thảo Luật được chỉnh lý lại như sau:
“2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính trong các lĩnh vực thuế, sở hữu trí tuệ, quản lý đất đai, nếu đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, nhưng hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại”.
Nếu chấp nhận phương án này, thì thời hiệu khởi kiện được quy định đối với từng loại khiếu kiện như tại Điều 68 Dự thảo Luật.
Phương án 2: Quy định theo hướng cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lựa chọn khiếu nại tại cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án mà không bắt buộc phải qua thủ tục khiếu nại trước khi khởi kiện như ý kiến của Uỷ ban tư pháp của Quốc hội.
Nếu chấp nhận phương án này thì thời hiệu khởi kiện sẽ được quy định chung cho các loại khiếu kiện là 6 tháng, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc. Đối với khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội và danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân là những loại việc có tính đặc thù nên thời hiệu khởi kiện vẫn được quy định như Dự thảo Luật (điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 68).
5. Về ý kiến đề nghị quy định khi giải quyết vụ án hành chính, Toà án chỉ xem xét tính hợp pháp về hình thức của quyết định hành chính, mà không xem xét đến nội dung của quyết định hành chính bị khiếu kiện.
Về vấn đề này, thực tế trong thời gian qua khi giải quyết các vụ án hành chính, Toà án xem xét tính hợp pháp cả về nội dung và hình thức của quyết định hành chính bị khiếu kiện. Nếu quy định theo hướng Toà án chỉ xem xét tính hợp pháp về mặt hình thức của quyết định hành chính thì sẽ không giải quyết dứt điểm việc khiếu kiện, vì thực tế người khởi kiện thường yêu cầu Toà án xem xét tính hợp pháp về nội dung của quyết định hành chính. Hơn nữa, muốn xem xét tính hợp pháp về hình thức thì phải xem xét cả nội dung của quyết định hành chính. Dự thảo Luật kế thừa quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và đã được thi hành trong hơn 13 năm qua là quy định theo hướng khi giải quyết vụ án hành chính Toà án xem xét cả hình thức và nội dung của quyết định hành chính bị khiếu kiện, theo đó khi giải quyết vụ án hành chính, Toà án có các quyền: huỷ một phần hoặc huỷ toàn bộ quyết định bị khởi kiện… (Điều 119 Dự thảo Luật).
6. Về ý kiến đề nghị thể hiện rõ hơn về giải thích thuật ngữ “quyết định hành chính” thể hiện tại khoản 1 Điều 2 Dự thảo Luật và làm rõ mối quan hệ giữa giải thích thuật ngữ này với khoản 1 và khoản 2 Điều 27 Dự thảo Luật (khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao…).
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao cho rằng ngoài các cơ quan hành chính nhà nước, thì các cơ quan nhà nước khác, cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước khác (cơ quan tư pháp…) trong nhiều trường hợp cũng có các quyết định hành chính (ví dụ: Chánh án Toà án ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng; Thẩm phán chủ toạ phiên toà ra quyết định phạt tiền đối với người vi phạm trật tự phiên toà…). Hơn nữa, việc quy định quyết định hành chính bằng hình thức “quyết định”, thì cũng dễ dẫn đến nhiều trường hợp mặc dù văn bản không được thể hiện dưới hình thức quyết định, nhưng nội dung lại quyết định những vấn đề cụ thể; do đó, nếu vẫn thể hiện việc giải thích thuật ngữ “quyết định hành chính” như Luật khiếu nại, tố cáo và Dự thảo Luật thì sẽ không bao quát hết các trường hợp. Vì vậy, Toà án nhân dân tối cao đề nghị thể hiện lại việc giải thích thuật ngữ “quyết định hành chính” theo hướng thể hiện rõ hơn thuật ngữ này để bao quát hết các chủ thể, hình thức thể hiện mệnh lệnh quản lý hành chính nhà nước bằng văn bản; cụ thể như sau:
“Quyết định hành chính” là văn bản của cơ quan nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính, được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể”.
7. Về ý kiến đề nghị quy định cụ thể trách nhiệm của Toà án trong việc xác minh, thu thập chứng cứ.
Về vấn đề này, để bảo đảm tính đầy đủ, tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu chỉnh lý lại khoản 4 Điều 7 Dự thảo Luật như sau:
“Điều 7. Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính
…
4. Toà án có trách nhiệm tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Luật này”.
Cùng với việc chỉnh lý lại khoản 4 Điều 7 Dự thảo Luật thì sẽ quy định cụ thể hơn các trường hợp Toà án thu thập chứng cứ quy định tại Điều 80 Dự thảo Luật.
8. Về ý kiến đề nghị nghiên cứu quy định về hiệu lực của quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định chuyển vụ án hành chính của Chánh án Toà án, vì khoản 1 Điều 29 Dự thảo Luật chưa quy định về hiệu lực của quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị này.
Về vấn đề này, để bảo đảm hiệu lực của quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị và phù hợp với đặc thù của loại khiếu nại, kiến nghị này, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu và chỉnh lý khoản 1 Điều 29 Dự thảo Luật như sau:
“1. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính, nếu phát hiện vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền và xoá sổ thụ lý. Quyết định này phải được gửi ngay cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
Đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị quyết định này trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Toà án đã ra quyết định chuyển vụ án hành chính phải giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Toà án đã ra quyết định chuyển vụ án hành chính là quyết định cuối cùng”.
9. Về ý kiến đề nghị bổ sung vào điểm b khoản 2 Điều 53 Dự thảo Luật quy định những trường hợp người làm chứng được từ chối khai báo tương tự quy định tại khoản 3 Điều 66 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu và chỉnh lý lại điểm b khoản 2 Điều 53 Dự thảo Luật như sau:
“b) Được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư hoặc việc khai báo đó có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan hệ thân thích với mình;”.
10. Về ý kiến đề nghị quy định trách nhiệm do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng (Điều 60) theo hướng trường hợp đương sự yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường tương tự quy định tại Điều 101 Bộ luật tố tụng dân sự; cần quy định trường hợp nào phải thực hiện biện pháp bảo đảm, trường hợp nào không phải thực hiện (ví dụ như đối với đối tượng khó khăn về kinh tế chẳng hạn) (khoản 2 Điều 61); thời hạn phải thực hiện biện pháp bảo đảm, mức bảo đảm phải tương đương thiệt hại có thể phát sinh do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thay cho mức tương đương với nghĩa vụ tài sản phải thực hiện; bổ sung điều kiện thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
– Về vấn đề quy định trường hợp nào thực hiện biện pháp bảo đảm, trường hợp nào không thực hiện đã được thể hiện tại Điều 62 Dự thảo Luật. Để làm rõ hơn về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao đề nghị sẽ hướng dẫn bằng Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
– Đối với các vấn đề khác của nội dung nêu trên, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu và chỉnh lý lại các điều 60, 62 và 63 Dự thảo Luật như sau:
“Điều 60. Trách nhiệm do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng
Đương sự yêu cầu Toà án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.
Điều 62. Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm
1. Người yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó sẽ gây thiệt hại về tài sản cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Toà án ấn định nhưng phải tương đương với thiệt hại có thể phát sinh do yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng để bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và ngăn ngừa sự lạm dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời từ phía người có quyền yêu cầu.
Thời hạn thực hiện biện pháp bảo đảm quy định tại Điều này không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được thông báo của Toà án.
2. Khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá phải được gửi vào tài khoản phong toả tại ngân hàng nơi có trụ sở của Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thời hạn do Toà án ấn định.
Trong trường hợp thực hiện biện pháp bảo đảm vào ngày lễ hoặc ngày nghỉ thì khoản tiền bảo đảm được gửi giữ tại Toà án. Toà án phải làm thủ tục giao nhận và gửi ngay khoản tiền đó vào ngân hàng vào ngày làm việc tiếp theo.
Điều 63. Thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
1. Khi xét thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời đang được áp dụng không còn phù hợp mà cần thiết phải thay đổi hoặc áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời khác thì thủ tục thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời khác được thực hiện theo quy định tại Điều 61 của Luật này.
2. Toà án ra ngay quyết định huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng khi có một trong các trường hợp sau đây:
a) Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đề nghị huỷ bỏ;
b) Người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu.
Trường hợp huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, Toà án phải xem xét, quyết định để người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhận lại khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá bảo đảm quy định tại Điều 62 của Luật này.
3. Việc thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên toà do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án quyết định; tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định”.
11. Về ý kiến đề nghị nghiên cứu để có hướng xử lý đối với trường hợp phát hiện có sai lầm của bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng đã hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao thấy rằng việc xây dựng một cơ chế đặc biệt để cho phép kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng đã hết thời hạn kháng nghị nhằm bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong những trường hợp mà lỗi của việc để quá thời hạn thuộc về Tòa án (đương sự đã có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn luật định nhưng không được xem xét hoặc đã được xem xét nhưng không kháng nghị). Do đó, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị quy định bổ sung một điều trong Dự thảo Luật như sau:
“Điều… Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng đã quá thời hạn kháng nghị
1. Trường hợp đương sự có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, nhưng đã hết thời hạn kháng nghị mà phát hiện ra sai lầm của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao sẽ xem xét để Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
2. Các phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để xem xét phải được ít nhất 2/3 tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành”.
12. Về ý kiến đề nghị nghiên cứu để có hướng xử lý đối với trường hợp phát hiện có sai lầm của quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao thấy rằng thực tiễn công tác giám đốc thẩm cũng đã phát hiện có quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có sai lầm, nhưng không có cơ chế để kháng nghị và xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm vì theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Luật tổ chức Toà án nhân dân thì “Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm”; pháp luật tố tụng hiện hành cũng chưa quy định về vấn đề xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Việc xây dựng cơ chế cho phép Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tự xem xét lại quyết định của mình không trái với quy định của Hiến pháp và vẫn thể hiện được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất (cơ chế này tương tự như việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung những văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết đã ban hành, nhưng có quy định không phù hợp hoặc không còn phù hợp). Vì vậy, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị quy định bổ sung một điều trong Dự thảo Luật, như sau:
“Điều… Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Trường hợp phát hiện quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có sai lầm thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao triệu tập họp Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Nếu tại phiên họp có ít nhất 2/3 tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành việc kháng nghị thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao”.
Tuy nhiên, việc xây dựng cơ chế cho phép Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao tự xem xét lại quyết định của mình cần phải được quy định chặt chẽ, theo đó cần có sự tham dự và thống nhất củaViện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Vì vậy, Toà án nhân dân tối cao đề nghị quy định bổ sung một khoản (khoản 6) vào Điều 153 Dự thảo Luật như sau:
“6. Quyết định của Hội đồng Thẩm phán trong trường hợp xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp và ít nhất 2/3 tổng số thành viên Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành”.
13. Về ý kiến cho rằng Điều 150 Dự thảo Luật chưa có sự phân biệt giữa trường hợp hoãn và trường hợp tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đề nghị quy định theo hướng người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền yêu cầu hoãn thi hành bản án, quyết định để xem xét việc kháng nghị; người đã kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao cho rằng mặc dù pháp luật chưa có quy định giải thích thế nào là “hoãn”, “tạm đình chỉ” thi hành bản án, quyết định của Toà án. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hoặc hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo Luật thi hành án dân sự thì có thể hiểu:
– Hoãn thi hành án áp dụng đối với trường hợp bản án chưa được thi hành.
– Tạm đình chỉ thi hành án áp dụng đối với trường hợp bản án đang được thi hành.
Việc quy định như Điều 150 Dự thảo Luật là bảo đảm đầy đủ các trường hợp. Vì vậy, Toà án nhân dân tối cao đề nghị giữ nguyên Điều 150 như Dự thảo Luật.
14. Về ý kiến đề nghị bổ sung thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm: “Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa” vào Điều 154 Dự thảo Luật.
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao đề nghị giữ nguyên như Dự thảo Luật; bởi lẽ nếu quy định thẩm quyền này của Hội đồng giám đốc thẩm, thì trái với nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Hơn nữa, Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban tư pháp của Quốc hội chỉ đề cập đến việc quy định thẩm quyền này đối với trường hợp Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ quyết định của Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao, giữ nguyên các bản án phúc thẩm và sơ thẩm; nếu quy định như vậy mà quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có sai lầm thì theo quy định của pháp luật hiện hành không có cơ chế khắc phục (nếu các quy định về việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong trường hợp đặc biệt như mục 12 phần I Báo cáo này thì việc khắc phục cũng rất khó khăn).
15. Về ý kiến đề nghị quy định ngay trong Dự thảo Luật về trình tự, thủ tục, thời hiệu thi hành bản án, quyết định của Toà án giải quyết vụ án hành chính và xác định một cơ quan có trách nhiệm giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính (cụ thể là giao cho Bộ Tư pháp).
– Về trình tự, thủ tục, thời hiệu thi hành bản án, quyết định của Toà án giải quyết vụ án hành chính, Toà án nhân dân tối cao thấy rằng việc thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính có những đặc thù khác với bản án, quyết định hình sự, dân sự (có những quyết định không cần cơ quan thi hành án mà mặc nhiên được thi hành, ví dụ Toà án tuyên bác yêu cầu khởi kiện đối với quyết định hành chính thì quyết định hành chính có hiệu lực thi hành, nếu người có nghĩa vụ thi hành quyết định hành chính đó không tự nguyện chấp hành thì bị cưỡng chế và việc cưỡng chế này thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước. Nếu quy định có một cơ quan thi hành án hành chính thì sẽ vi phạm nguyên tắc một việc giao cho nhiều cơ quan thực hiện – việc cưỡng chế thi hành vừa thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính, vừa thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án hành chính). Đối với phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Toà án thì Luật thi hành án dân sự đã quy định là thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự. Với những lý do đó, Toà án nhân dân tối cao đã thể hiện một số nội dung về trình tự, thủ tục thi hành án hành chính phù hợp với đặc thù của loại án hành chính này tại các điều 157, 158 và 159 Dự thảo Luật. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả thi hành án hành chính, Toà án nhân dân tối cao đề nghị bổ sung thêm một khoản vào Điều 159 như sau:
“Trường hợp cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định của Toà án mà không nghiêm chỉnh chấp hành thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức phải chấp hành bản án, quyết định của Toà án để có biện pháp cưỡng chế buộc cơ quan, tổ chức phải thi hành bản án, quyết định của Toà án”.
– Về vấn đề xác định cụ thể một cơ quan có trách nhiệm giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu, bổ sung vào khoản 5 Điều 159 Dự thảo Luật như sau:
“5. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án hành chính trong phạm vi cả nước. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án hành chính”.
16. Về ý kiến đề nghị không quy định dẫn chiếu áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ án hành chính (Điều 161 Dự thảo Luật).
Về vấn đề này, để bảo đảm tính minh bạch của các quy định của văn bản quy phạm pháp luật; bảo đảm văn bản quy phạm pháp luật phải quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu bỏ Điều 161 Dự thảo Luật.
17. Về ý kiến đề nghị nghiên cứu và quy định cụ thể trong Dự thảo Luật quyền yêu cầu của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính như Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ, trưng cầu giám định… như tố tụng dân sự.
– Về vấn đề quy định cụ thể quyền của Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu bổ sung một khoản (khoản 3) vào Điều 80 Dự thảo Luật như sau:
“3. Khi tiến hành các biện pháp quy định tại khoản 2 Điều này, Thẩm phán phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Toà án.
Đương sự có quyền khiếu nại quyết định áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ của Toà án. Khiếu nại của đương sự phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự”.
– Về quy định quyền của Viện kiểm sát tự mình trưng cầu giám định. Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao xin được đề xuất 2 phương án như sau:
Phương án 1: Toà án nhân dân tối cao đề nghị giữ nguyên như Dự thảo Luật, v× việc đề nghị Toà án trưng cầu giám định, định giá là quyền của đương sự.
Phương án 2: Để tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện tốt hơn trong việc thực hiện chức năng kiểm sát, đặc biệt là thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, Toà án nhân dân tối cao đề nghị quy định Viện kiểm sát có quyền tự mình thu thập chứng cứ (trong đó có quyền trưng cầu giám định), theo đó bổ sung một đoạn vào khoản 3 Điều 80 Dự thảo Luật như sau:
“3…
Trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng hoặc tự mình xác minh, thu thập chứng cứ, trưng cầu giám định, định giá để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm”.
18. Về ý kiến đề nghị cần quy định cụ thể hơn trong Dự thảo Luật về nội dung phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà trước khi Hội đồng xét xử nghị án để thể hiện đúng vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính (Điều 116 Dự thảo Luật).
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao cho rằng việc quy định Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án đã được Bộ luật tố tụng dân sự và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính hiện hành quy định và thực tế chưa có vướng mắc hay bất cập liên quan đến quy định này. Vì vậy, Toà án nhân dân tối cao đề nghị giữ nguyên như Dự thảo Luật.
II. VỀ mỘt sỐ vẤn đỀ khác
Ngoài việc đề nghị tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật theo ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban tư pháp nêu trên; trên cơ sở tổng hợp các ý kiến của các đại biểu tại phiên họp thẩm tra của Uỷ ban tư pháp của Quốc hội về Dự án Luật tố tụng hành chính, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu, chỉnh lý một số nội dung khác sau đây của Dự thảo Luật:
1. Về ý kiến đề nghị quy định “quyết định kỷ luật buộc thôi việc” còn bao gồm cả đối tượng là viên chức.
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao đề nghị bổ sung quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với viên chức thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng hành chính, vì theo pháp luật hiện hành thì đối tượng viên chức vẫn bị áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc và thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Nếu sau này chúng ta có Luật viên chức và việc kỷ luật buộc thôi việc đối với loại đối tượng này không còn mà thay vào đó là hình thức khác như sa thải hoặc chấm dứt hợp đồng lao động thì loại khiếu kiện này đương nhiên sẽ không còn thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính . Vì vậy, khái niệm “quyết định kỷ luật buộc thôi việc” tại khoản 3 Điều 2 Dự thảo Luật sẽ được bổ sung như sau:
“Quyết định kỷ luật buộc thôi việc” là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức, viên chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về công chức, viên chức”.
2. Về ý kiến đề nghị quy định trường hợp người tham gia tố tụng hành chính dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình thì Toà án phải cử người phiên dịch thay cho quy định “Trong trường hợp này cần phải có người phiên dịch” (Điều 20 Dự thảo Luật).
Về vấn đề này, để bảo đảm quy định được rõ ràng, cụ thể, tránh sự tuỳ tiện trong việc thi hành khi Luật được Quốc hội thông qua, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu và chỉnh lý lại đoạn 2 Điều 20 Dự thảo Luật như sau:
“Người tham gia tố tụng hành chính có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Trong trường hợp này Toà án phải cử người phiên dịch”.
3. Về ý kiến đề nghị sửa lại Điều 24 Dự thảo Luật theo hướng quy định “các vấn đề về án phí, lệ phí và chi phí tố tụng được thực hiện theo quy định của pháp luật”.
Về vấn đề này, để bảo đảm tính ổn định của điều luật, đúng với tinh thần của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu và chỉnh lý lại Điều 24 Dự thảo Luật như sau:
“Điều 24. Án phí, lệ phí và chi phí tố tụng
Các vấn đề về án phí, lệ phí và chi phí tố tụng được thực hiện theo quy định của pháp luật.”
4. Về ý kiến đề nghị quy định cụ thể việc Toà án xử lý tiền tạm ứng án phí trong trường hợp Toà án đã thụ lý vụ án chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại (khoản 1 Điều 28 Dự thảo Luật).
Về vấn đề này, để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 28 Dự thảo Luật như sau:
“1. Trường hợp người khởi kiện vừa có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì việc giải quyết thuộc thẩm quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Toà án đã thụ lý vụ án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại và hoàn trả toàn bộ tiền tạm ứng án phí cho người khởi kiện”.
5. Về ý kiến đề nghị quy định thẩm quyền của Chánh án Toà án về việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án tại điểm c khoản 1 Điều 32 Dự thảo Luật là chỉ đối với trường hợp trước khi mở phiên toà, vì tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định.
Về vấn đề này, để bảo đảm tính chính xác của quy định, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu và chỉnh lý lại điểm c khoản 1 Điều 32 Dự thảo Luật như sau:
“c) Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án trước khi mở phiên toà;”.
6. Về ý kiến đề nghị có một chương quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong tố tụng hành chính, vì điểm e khoản 1 Điều 32 và điểm e khoản 1 Điều 36 quy định Chánh án Toà án nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn “giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật này”, nhưng trong Dự thảo Luật không có quy định về thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính.
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu bổ sung một chương quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hành chính để bảo đảm tính đầy đủ, thống nhất của pháp luật tố tụng trong hệ thống pháp luật (Bộ luật tố tụng hình sự và Bộ luật tố tụng dân sự đều có chương riêng quy định về khiếu nại, tố cáo).
7. Về ý kiến đề nghị quy định cụ thể trong Luật về người đại diện, đặc biệt là về đại diện theo uỷ quyền mà không viện dẫn đến Bộ luật dân sự như Điều 51 Dự thảo Luật.
Về vấn đề này, để bảo đảm văn bản quy phạm pháp luật quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu và chỉnh lý lại Điều 51 Dự thảo Luật như sau:
“Điều 51. Người đại diện
1. Người đại diện trong tố tụng hành chính bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền.
2. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng hành chính có thể là một trong những người sau đây, trừ trường hợp người đó bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật.
a) Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
b) Người giám hộ đối với người được giám hộ;
c) Người được Toà án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
d) Người đứng đầu cơ quan, tổ chức do được bổ nhiệm hoặc bầu theo quy định của pháp luật;
đ) Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình;
e) Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác;
g) Những người khác theo quy định của pháp luật.
3. Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng hành chính phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức uỷ quyền bằng văn bản.
4. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng hành chính thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính của đương sự mà mình là đại diện.
Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng hành chính thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính theo nội dung văn bản uỷ quyền. Người được uỷ quyền không được uỷ quyền lại cho người thứ ba.
Trường hợp người đại diện theo uỷ quyền của người đứng đầu cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo uỷ quyền thực hiện tất cả các quyền, nghĩa vụ tố tụng hành chính của cơ quan, tổ chức mà mình được uỷ quyền đại diện.
5. Những người sau đây không được làm người đại diện:
a) Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện;
b) Nếu họ đang là người đại diện trong tố tụng hành chính cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án.
6. Cán bộ, công chức trong các ngành Toà án, Kiểm sát, Công an, thanh tra, thi hành án dân sự không được làm người đại diện trong tố tụng hành chính, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật”.
8. Về ý kiến đề nghị bổ sung quy định điều kiện khởi kiện đối với các khiếu kiện khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên quy định tại khoản 5 Điều 25 Dự thảo Luật.
Về vấn đề này, để bảo đảm tính đầy đủ của văn bản quy phạm pháp luật, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu và bổ sung một khoản vào Điều 67 Dự thảo Luật (khoản 5) như sau:
“5. Đối với khiếu kiện quy định tại khoản 5 Điều 25 của Luật này thì điều kiện khởi kiện được thực hiện theo quy định của văn bản pháp luật hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; trong trường hợp văn bản pháp luật hoặc điều ước quốc tế không quy định thì điều kiện khởi kiện được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều này”.
9. Về ý kiến đề nghị quy định việc giải thích bản án, quyết định của Toà án trước tiên phải căn cứ vào bản án (khoản 3 Điều 158 Dự thảo Luật).
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu và bổ sung vào khoản 3 Điều 158 Dự thảo Luật như sau:
“3. Việc giải thích bản án, quyết định của Toà án phải căn cứ vào nội dung đã được thể hiện trong bản án, quyết định đó; biên bản phiên toà và biên bản nghị án”.
10. Về ý kiến đề nghị quy định về cơ chế khắc phục tình trạng đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tràn lan, thiếu căn cứ pháp luật.
Về vấn đề này, để khắc phục tình trạng đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm tràn lan, thiếu căn cứ, gây nên tình trạng quá tải trong việc giải quyết loại đơn này của các Tòa án, đặc biệt là Tòa án nhân dân tối cao; đồng thời tạo cơ hội cho Chánh án Tòa án đã ra bản án có hiệu lực pháp luật xem xét và nắm được chất lượng xét xử của các Thẩm phán thuộc Toà án mình, mặt khác để nâng cao hiệu quả trong việc xem xét những đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm cần thành lập các Hội đồng xét đơn, Hội đồng này gồm 03 Thẩm phán do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định thành lập ở Toà án nhân dân tối cao và ở Tòa án nhân dân các địa phương. Nhiệm vụ của Hội đồng xét đơn là thụ lý và xem xét tính hợp pháp, có căn cứ của đơn khiếu nại. Trường hợp đơn khiếu nại có căn cứ thì Hội đồng xét đơn trình Chánh án có thẩm quyền xem xét kháng nghị, trường hợp đơn khiếu nại không có căn cứ thì Hội đồng xét đơn trả lời đương sự về việc không có căn cứ kháng nghị. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi của đương sự, cũng cần quy định rõ việc đương sự có quyền tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền kháng nghị. Theo hướng đó, Toà án nhân dân tối cao đề nghị tiếp thu và bổ sung một số điều vào Chương XI Dự thảo Luật quy định về Hội đồng xét đơn và điều kiện, trình tự gửi đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm; cụ thể như sau:
“Điều… Hội đồng xét đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Các Hội đồng xét đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được thành lập ở Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Hội đồng xét đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ở Toà án nhân dân tối cao gồm ba Thẩm phán do Chánh án Toà án nhân dân tối cao quyết định thành lập.
Hội đồng xét đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ở Toà án nhân dân cấp tỉnh gồm ba Thẩm phán do Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập.
“Điều… Điều kiện và trình tự gửi đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải được gửi đến Chánh án Toà án cấp tỉnh nơi đã ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật để xem xét. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn, Chánh án Toà án phải phân công cho Hội đồng xét đơn. Trong thời hạn ba mươi ngày làm việc Hội đồng xét đơn phải xem xét trả lời đơn; văn bản trả lời phải được gửi cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp; trường hợp phát hiện có sai lầm thì Toà án phải gửi hồ sơ cùng văn bản đề xuất kháng nghị giám đốc thẩm và đơn đề nghị của đương sự đến người có thẩm quyền kháng nghị, đồng thời thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp Hội đồng xét đơn đã trả lời đơn là không có căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm mà đương sự không đồng ý hoặc hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Hội đồng xét đơn đã nhận đơn mà không được giải quyết thì đương sự có thể gửi đơn đến Chánh án Toà án cấp tỉnh đã ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật để xem xét.
2. Trường hợp Chánh án Toà án Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng xét đơn của Tòa án nhân dân tối cao đã trả lời đơn là không có căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm mà đương sự không đồng ý hoặc hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Hội đồng xét đơn nhận đơn mà không được giải quyết thì đương sự có thể gửi đơn đến người có thẩm quyền kháng nghị.
3. Trong thời hạn 1 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà đương sự không có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì không xem xét để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”.
11. Về ý kiến đề nghị quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân.
Về vấn đề này, Toà án nhân dân tối cao xin được đề xuất 2 phương án như sau:
Phương án 1: Toà án nhân dân tối cao đề nghị không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân, vì nếu quy định Viện kiểm sát khởi tố vụ án hành chính thì Viện kiểm sát vừa là bên bảo vệ quyền, lợi ích của người khởi kiện, vừa tham gia giải quyết vụ án hành chính; đồng thời Viện kiểm sát khởi kiện cũng được hiểu là một cơ quan nhà nước kiện một cơ quan nhà nước và như vậy là không hợp lý. Thực tế, trong hơn 13 năm qua Viện kiểm sát chưa khởi tố vụ án hành chính nào. Vì vậy, Toà án nhân dân tối cao đề nghị không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân.
Phương án 2: Toà án nhân dân tối cao đề nghị nếu quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện kiểm sát nhân dân thì cũng cần phải quy định rõ những điều kiện nào mới được khởi tố, có được sự đồng ý của người được bảo vệ quyền lợi hay không vì Viện kiểm sát không thể tham gia phiên tòa với tư cách là Người khởi kiện, do đó nội dung quyết định khởi tố phải xác định được quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại, Người khởi kiện, Người bị khởi kiện và phải được sự nhất trí của Người khởi kiện thì khi đó Tòa án mới thụ lý giải quyết.
Trên đây là báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật tố tụng hành chính. Toà án nhân dân tối cao kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nơi nhận: – Các đại biểu Quốc hội; – Uỷ ban tư pháp của Quốc hội; – Văn phòng Quốc hội; – Văn phòng Chính phủ; – Văn phòng Chủ tịch nước; – Bộ Tư pháp; – Viện kiểm sát nhân dân tối cao; – Bộ Tài nguyên và Môi trường; – Bộ tài chính; – Thanh tra Chính phủ; – Bộ Công an; – Lưu: VP, Viện KHXX (TANDTC). |
CHÁNH ÁN (đã ký) Trương Hoà Bình |
hạm vi điều chỉnh của Dự án Luật.
(LĐ) – Vào những ngày cuối tháng 7-2010, Uỷ ban Tư pháp Quốc hội đã tổ chức hội thảo, lắng nghe tiếng nói từ các chủ thể tư pháp khác nhau, từ đại diện toà án, Viện Kiểm sát ND Tối cao và các địa phương, đến các Luật sư của LVN Group đang hành nghề về một dự án luật rất quan trọng là dự thảo Luật Tố tụng hành chính.
Dự án luật này có can hệ tới sự tin cậy về tính hiệu lực của thiết chế tố tụng hành chính có bảo đảm thật sự là chỗ dựa cho người dân, doanh nghiệp đang hàng ngày đối diện trước các quyết định và hành vi hành chính của những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy hành chính Nhà nước tác động và ảnh hưởng đến các quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay không…
Tôi nhớ tâm trạng chung của nhiều người rất hồ hởi, vui mừng khi Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (PLTTGQCVAHC) được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá IX thông qua ngày 21-5-1996, rồi được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1998, 2006 đến nay, có thể mở rộng cho những khiếu kiện của người dân, doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo thông tin từ hội thảo, trái với sự lo ngại Toà Hành chính sẽ quá tải, thật ngạc nhiên là nếu phân bổ theo số lượng tổ chức toà án các cấp hiện nay, mỗi năm một đơn vị chỉ thụ lý chưa tới… 2 vụ kiện. Tôi biết nhiều thẩm phán của toà hành chính các địa phương bây giờ được giao giải quyết các vụ kiện dân sự, lao động, hôn nhân gia đình? Có điều gì đang ẩn chứa đằng sau sự vắng lặng bất thường từ tố tụng hành chính lạnh lẽo như thế ?
Đánh giá một cách khách quan, có thể nói các quy định của PLTTGQCVAHC chưa thoả mãn được yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án hành chính của toà án nhân dân, trong một chừng mực nhất định đã gây trở ngại cho người dân khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Trong con mắt của những người khiếu kiện, hành trình tố tụng hành chính như những đoạn trường quan ải không dễ vượt qua, bởi xét ở một chừng mực nhất định trong cơ chế hiện nay, sự né tránh kéo dài quá trình giải quyết khiếu nại, những áp lực từ các cơ quan quyền lực và hành chính – nơi xuất phát của các quyết định hành chính và hành vi hành chính – vẫn hàng ngày tác động đến tính vô tư và độc lập của những người tiến hành tố tụng.
Có ý kiến cho rằng do cơ chế bổ nhiệm thẩm phán ở nước ta còn theo nhiệm kỳ, không phải được bổ nhiệm suốt đời, nên trong một chừng mực nhất định, thực tế nảy sinh tâm lý của thẩm phán lo ngại khi được phân công thụ lý vụ án hành chính, hoặc khi xem xét, đánh giá hiệu lực của các quyết định, hành vi hành chính của người có chức vụ, quyền hạn – những người này có thể ảnh hưởng đến việc quyết định tái bổ nhiệm hay không của chính thẩm phán…
Nền tảng của tố tụng hành chính mong muốn đạt tới là làm sao thông qua một thiết chế tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp được tiếp cận ngay với hệ thống toà án khi các quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, trong dự thảo Luật Tố tụng hành chính lần này, điều mong mỏi chung là các nhà soạn thảo hướng cần hướng đến mục tiêu không chỉ góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tăng cường sự vận hành thông suốt của bộ máy hành chính, mà đặt các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp trong thế được bảo đảm công bằng và minh bạch.
Ở đây, vấn đề cần quan tâm chính là việc Ban soạn thảo đang “bỏ ngỏ” đối với một số loại việc có tính chuyên môn cao (như các quyết định hành chính trong lĩnh vực về thuế, sở hữu trí tuệ, quản lý đất đai và các lĩnh vực khác được luật chuyên ngành quy định) để các cơ quan hành chính giải quyết khiếu nại trước khi cho phép khởi kiện ra toà án. Quy định như vậy vô hình trung đi ngược lại chủ trương đơn giản hóa thủ tục khởi kiện và nâng cao trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết các khiếu kiện hành chính.
Chính các loại việc có tính chuyên môn cao lại càng đòi hỏi phải có sự phân xử rõ ràng của toà án, vì hầu hết các trường hợp này, cơ quan giải quyết khiếu nại thường bảo lưu quyết định hành chính của cấp dưới. Cần đơn giản hoá điều kiện khởi kiện vụ án hành chính theo hướng cá nhân, tổ chức không đồng ý với quyết định hành chính, hành vi hành chính thì có thể khởi kiện vụ án hành chính mà không đặt ra yêu cầu về việc cá nhân, tổ chức đó phải khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Đó cũng chính là cơ chế cho phép trả lại cho toà hành chính của toà án các cấp hình ảnh và là địa chỉ tin cậy của người dân và doanh nghiệp trong việc tiếp cận với công lý.
(NGUỒN: SƯU TẦM)
THAM KHẢO DỊCH VỤ TƯ VẤN LIÊN QUAN:
1. Tư vấn pháp luật lao động;
2.Tư vấn pháp luật lĩnh vực dân sự;
3. Tư vấn luật hành chính Việt Nam;
4. Luật sư riêng cho doanh nghiệp;
5.Dịch vụ Luật sư của LVN Group tư vấn giải quyết tranh chấp tại tòa án.
6. Luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp hôn nhân gia đình;