Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền đã thể hiện quyết tâm trong việc xử lý đối với các hành vi vi phạm. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều vướng mắc và bất cập của pháp luật trong việc xử lý đối với các vi phạm xảy ra. Điều này càng khẳng định thêm tính bức thiết của việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

1. Một số hạn chế của quy định hiện hành về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (BVMT) hiện hành thể hiện chủ yếu bằng Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 9/8/2006 về xử phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT do đó, ở đây chúng tôi giới hạn nhận xét về một số hạn chế của Nghị định này.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:   1900.0191

Luật sư bào chữa tại tòa án ?

Luật sư tư vấn & bào chữa tại tòa án – Ảnh minh họa

1.1. Định nghĩa về VPHC trong lĩnh vực BVMT trong Nghị định chưa đầy đủ, chưa thể hiện được đặc điểm của loại vi phạm này

Định nghĩa VPHC là một trong những nội dung quan trọng không thể thiếu trong các nghị định xử phạt VPHC trong các lĩnh vực cụ thể. Việc định nghĩa đúng thể hiện đầy đủ các yếu tố pháp lý của VPHC có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho việc áp dụng pháp luật.

Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 81/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về xử phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT (sau đây viết tắt là Nghị định 81/2006/NĐ-CP) định nghĩa: “VPHC trong lĩnh vực BVMT là những hành vi vi phạm các quy định QLNN trong lĩnh vực BVMT do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của Pháp lệnh Xử lý VPHC và Nghị định này phải bị xử lý VPHC”.

Định nghĩa về VPHC trong lĩnh vực BVMT nêu trên được cấu trúc theo công thức tương tự như định nghĩa về VPHC tại Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt VPHC do Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 30/11/1989 và có hiệu lực ngày 01/01/1990 (viết tắt là Pháp lệnh 1989). Chỉ có sự thay đổi “xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước” thành “vi phạm các quy định quản lý nhà nước” đồng thời nêu cụ thể lĩnh vực quản lý nhà nước (QLNN) là lĩnh vực BVMT.

Tuy nhiên, theo nhiều ý kiến thì định nghĩa VPHC tại Pháp lệnh 1989 vẫn còn một số hạn chế nhất định như: vẫn còn thiếu dấu hiệu về năng lực trách nhiệm hành chính của chủ thể và không chính xác khi cho rằng quy tắc QLNN là khách thể của vi phạm1; việc xác định khách thể của VPHC là các quy tắc QLNN dẫn tới chỗ có thể được hiểu đó là khách thể của cả vi phạm kỷ luật và không bao gồm được các quan hệ xã hội liên quan tới sở hữu nhà nước, các quyền tự do và lợi ích hợp pháp của công dân2.

Theo Giáo trình Luật hành chính Việt Nam của Đại học Quốc gia Hà Nội thì định nghĩa trên vẫn cần phải được chính xác hóa thêm ở một số khía cạnh3:

Một là, yếu tố khách thể của VPHC (những quan hệ xã hội bị VPHC xâm hại) không được thể hiện trong định nghĩa, tuy rằng điều này rất quan trọng. Công thức “xâm phạm quy tắc QLNN” không phải chỉ khách thể vi phạm, mà là chỉ tính trái pháp luật của hành vi, vì khách thể VPPL là quan hệ xã hội, chứ không phải là “quy tắc”, mà quy tắc chính là nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Hai là, công thức “mà không phải là tội phạm hình sự” rất dễ làm cho chủ thể có thẩm quyền xử phạt VPHC hiểu lầm, dẫn đến chỗ tự cho mình có quyền đánh giá hành vi nào là vi phạm hình sự, hành vi nào là VPHC, mà xem nhẹ việc dựa vào những quy định của Bộ luật Hình sự.

Chúng tôi hoàn toàn thống nhất với các quan điểm trên về định nghĩa VPHC. Vì khách thể VPHC (những quan hệ xã hội bị VPHC xâm hại) là một yếu tố rất quan trọng, thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi VPHC, nên cần phải thể hiện trong định nghĩa về VPHC. Năng lực chịu trách nhiệm hành chính của chủ thể vi phạm là dấu hiệu bắt buộc của VPPL nói chung và VPHC nói riêng. Do đó, các dấu hiệu này cần phải được khẳng định ngay trong định nghĩa về VPHC. Ngoài ra, việc thay công thức “mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt VPHC” thành “mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính”4 vừa ngắn gọn, vừa đầy đủ ý nghĩa hơn, thể hiện được sự phân biệt giữa VPHC với tội phạm vì chỉ có VPHC mới chịu trách nhiệm hành chính còn tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự, đồng thời cụm từ “chịu trách nhiệm hành chính” bao hàm được cả “phải bị xử phạt VPHC” và bị áp dụng các biện pháp khôi phục.

Vì thế, định nghĩa về VPHC trong lĩnh vực BVMT nêu tại Nghị định 81/2006/N-CP cũng có những hạn chế như định nghĩa về VPHC trong Pháp lệnh 1989.

Trên cơ sở nghiên cứu các dấu hiệu và yếu tố pháp lý của VPHC trong lĩnh vực BVMT (chủ thể, khách thể, mặt chủ quan, mặt khách quan) và những phân tích như trên, theo chúng tôi, VPHC trong lĩnh vực BVMT có thể được định nghĩa như sau:

VPHC trong lĩnh vực BVMT là hành vi (hành động hoặc không hành động) vi phạm các quy định QLNN trong lĩnh vực BVMT, có lỗi (cố ý hoặc vô ý) do cá nhân có năng lực trách nhiệm hành vi hành chính hoặc tổ chức thực hiện, xâm hại đến những quan hệ pháp luật BVMT phát sinh trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính.

1.2. Hành vi VPHC trong lĩnh vực BVMT chưa đủ để đáp ứng yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật về BVMT

Nghị định 81/2006/NĐ-CP quy định 25 hành vi VPHC trong lĩnh vực BVMT từ Điều 8 đến Điều 32 bao gồm các hành vi vi phạm (HVVP) các quy định về cam kết BVMT; đánh giá tác động môi trường và đánh giá môi trường chiến lược; về BVMT trong hoạt động sản xuất kinh doanh (ví dụ như: hành vi xả nước thải, khí thải, bụi vượt tiêu chuẩn); về quản lý chất thải; về bảo tồn thiên nhiên; phòng, chống sự cố môi trường; hoạt động QLNN về BVMT…

Mặc dù khách thể của VPHC là các quan hệ xã hội bị xâm hại nhưng HVVP trong các văn bản thường không nêu quan hệ xã hội bị xâm hại mà được mô tả thông qua các quy định của pháp luật mà hành vi đó xâm phạm (ví dụ: HVVP các quy định về cam kết BVMT). Đồng thời, thông thường các HVVP được xác định dựa theo hệ thống quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đó (mặc dù, về nguyên tắc việc xác định này phải căn cứ vào yêu cầu đấu tranh phòng chống vi phạm pháp luật và thực tiễn vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đó).

Do đó, việc đánh giá mức độ đầy đủ của hành vi VPHC trong một lĩnh vực thường được đối chiếu giữa số HVVP đã được quy định với hệ thống các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đó. So với hệ thống các quy phạm pháp luật trong lĩnh vệ BVMT thì 25 hành vi được quy định nêu trên, theo chúng tôi, là chưa đầy đủ.

Vì vậy, để bảo đảm cho các quy định của pháp luật được thực hiện và đáp ứng yêu cầu phòng chống VPHC trong lĩnh vực BVMT cần phải quy định bổ sung các hành vi VPHC vào Nghị định xử lý VPHC trong lĩnh vực này. Điều này cũng giống như hình sự hóa trong lĩnh vực hình sự, dĩ nhiên ở mức độ đơn giản hơn nhiều. Bên cạnh đó, việc quy định hành vi nào, hình thức xử phạt ra sao đối với hành vi đó cần phải có những đánh giá cụ thể mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi (ví dụ một số hành vi: vi phạm quy định về lập, thực hiện đề án BVMT; vi phạm các quy định về BVMT đối với cơ sở thuộc danh mục các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; vi phạm các quy định về BVMT đối với chất thải nguy hại như: các quy định đối với chủ nguồn thải chất thải nguy hại; vận chuyển; xử lý, tiêu hủy, chôn lấp; vi phạm các quy định về BVMT trong hoạt động chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; vi phạm các quy định về BVMT biển; vi phạm các quy định về BVMT nơi công cộng; vi phạm về BVMT đối với khu đô thị, khu dân cư tập trung…).

1.3. Một số hình thức xử lý và biện pháp khắc phục hậu quả quy định chưa cụ thể

Hình thức “tạm đình chỉ hoạt động cho đến khi thực hiện xong biện pháp BVMT cần thiết” và “cấm hoạt động, buộc di dời” không được Nghị định 81/2006/NĐ-CP quy định cụ thể là hình thức phạt bổ sung hay biện pháp khắc phục hậu quả. Nếu căn cứ vào khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2002 và Điều 7 Nghị định 81/2006/NĐ-CP thì cả hai hình thức nêu trên đều không được xem là hình thức phạt bổ sung, vì các quy định này chỉ quy định hai hình thức phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép và tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm.

Theo chúng tôi, hình thức “tạm đình chỉ hoạt động cho đến khi thực hiện xong biện pháp BVMT cần thiết”, xét về nội dung thì phải được xem là biện pháp ngăn chặn. Bởi vì: thứ nhất, về thời gian, đây là biện pháp tạm thời thực hiện trong thời hạn nhất định phải có lúc kết thúc. Thứ hai, việc tạm thời đình chỉ hoạt động tức là tạm ngưng hoạt động của cơ sở sản xuất vi phạm, bản thân của việc tạm ngưng này hoàn toàn không phát sinh một sự phục hồi nào cho tình trạng hiện tại, mà chỉ là sự chấm dứt nguyên nhân dẫn đến việc vi phạm và có ý nghĩa để đảm bảo cho việc thực hiện các biện pháp khắc phục khác.

Thực tế, việc xử lý VPHC Công ty Vedan (tại tỉnh Đồng Nai) vào tháng 10/2008 vừa qua của Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cho thấy những vướng mắc từ việc xác định không rõ ràng nêu trên. Khi ban hành quyết định xử lý đối với Công ty Vedan, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường không áp dụng hình thức tạm đình chỉ hoạt động Công ty Vedan mà có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai ban hành quyết định tạm đình chỉ hoạt động Công ty Vedan. Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai thì cho rằng, tạm đình chỉ là hình thức phạt bổ sung nên  không thể ban hành quyết định vì Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành quyết định xử phạt rồi mà nguyên tắc xử phạt VPHC thì chỉ xử phạt một lần đối với một HVVP.

Vướng mắc này lẽ ra đã không xảy ra nếu như trong Nghị định 81/2006/NĐ-CP cụ thể hóa Điều 18 của Nghị định số 134/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2002:

“Khi phát hiện VPHC, người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định đình chỉ ngay HVVP. Quyết định đình chỉ có thể là quyết định bằng văn bản hoặc quyết định thể hiện bằng lời nói, còi, tín hiệu hoặc các hình thức khác tuỳ từng trường hợp vi phạm cụ thể”. Điều này của Nghị định là cụ thể hóa Điều 53 của Pháp lệnh. Thực chất, đây là biện pháp ngăn chặn VPHC.

Khi “tạm đình chỉ hoạt động” được xem là biện pháp ngăn chặn thì nó được áp dụng theo thủ tục riêng độc lập với việc ban hành quyết định xử lý. Lúc này thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai có quyền ban hành quyết định tạm đình chỉ hoạt động đối với Công ty Vedan mà không phải lo việc vi phạm nguyên tắc một HVVP chỉ xử phạt một lần, vì quyết định tạm đình chỉ hoạt động là quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn VPHC.

Riêng “cấm hoạt động, buộc di dời”, xét về nội dung, là hai hình thức có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau: “cấm hoạt động” mang ý nghĩa là hình thức phạt bổ sung, mang tính xử phạt vì tước bỏ quyền vốn có của đương sự; còn “buộc di dời” về tính chất rõ ràng là biện pháp khắc phục hậu quả. Việc phân định cụ thể như vậy là rất có ý nghĩa trong thủ tục áp dụng.

Cũng cần nói thêm một hạn chế nữa là trong phần quy định về thẩm quyền, thủ tục xử lý của Nghị định cũng không có quy định về biện pháp “tạm đình chỉ hoạt động cho đến khi thực hiện xong biện pháp BVMT cần thiết” và hình thức “cấm hoạt động, buộc di dời”.

Vì vậy, theo chúng tôi, cần quy định cụ thể, rõ hình thức “buộc đình chỉ hoạt động trong một thời gian nhất định để thực hiện các biện pháp BVMT theo quy định” là biện pháp “ngăn chặn VPHC và đảm bảo việc xử phạt”. Nội dung đình chỉ là chỉ đình chỉ đối với công đoạn phát sinh ô nhiễm chứ không phải đình chỉ toàn bộ hoạt động của đơn vị. Điều này sẽ khắc phục được những vướng mắc về thẩm quyền áp dụng, dẫn đến tình trạng đùn đẩy như đã diễn ra đối với vi phạm của Công ty Vedan. Đồng thời quy định rõ “cấm hoạt động” là hình thức phạt bổ sung và “buộc di dời” là biện pháp khắc phục hậu quả. Kèm theo đó, cần quy định cả thủ tục áp dụng cả ba biện pháp này.

1.4. Chưa quy định chi tiết các chỉ tiêu phân tích mẫu chất thải cho từng loại ngành nghề cụ thể, có thể dẫn đến bỏ sót vi phạm

Nhiều vi phạm đòi hỏi phải có kết quả phân tích mẫu chất thải như các hành vi xả nước thải, khí thải vượt tiêu chuẩn môi trường. Trong khi tiêu chuẩn môi trường quy định cho từng loại thường có rất nhiều chỉ tiêu như tiêu chuẩn nước thải công nghiệp (37 chỉ tiêu)5; tiêu chuẩn chất vô cơ trong khí thải công nghiệp (19 chỉ tiêu)6; tiêu chuẩn chất hữu cơ trong khí thải công nghiệp (109 chỉ tiêu)7. Vì vậy, về nguyên tắc, để xác định một trường hợp nước thải hay khí thải cụ thể có vượt tiêu chuẩn cho phép không thì phải có kết quả phân tích của tất cả các chỉ tiêu, mà việc phân tích này rất tốn kém (mỗi chỉ tiêu phân tích có giá trung bình hiện nay khoảng 50.000 đồng đến 60.000 đồng) và thực tế là không cần thiết vì mỗi ngành sản xuất khác nhau có những đặc điểm khác nhau về các chỉ tiêu đặc trưng. Do vậy, trong thực tế, cơ quan kiểm tra, thanh tra thường căn cứ vào đặc điểm của từng ngành sản xuất cụ thể để quyết định yêu cầu phân tích một số chỉ tiêu nhất định (ví dụ như nước thải của ngành công nghiệp thực phẩm thì các chỉ tiêu được quan tâm là BOD, COD, DO, pH, chất rắn lơ lửng và Ecolifom; ngành công nghiệp điện, điện tử thì quan tâm các chỉ tiêu kim loại nặng (Hg, Pb, Cr(VI), Cr(III) và một số hóa chất đặc trưng khác như chất phóng xạ; với công nghiệp dệt nhuộm thì quan tâm các chỉ tiêu màu, pH, COD, tổng Clo hữu cơ và một số hóa chất khác được sử dụng trong quá trình sản xuất…). Việc quyết định yêu cầu phân tích chỉ tiêu nào hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cán bộ kiểm tra, thanh tra (trình độ chuyên môn hoặc do cố ý của người cán bộ) nên dễ dẫn đến yêu cầu phân tích chỉ tiêu không phù hợp với ngành đang kiểm tra, hoặc đưa ra một kết quả phân tích nước thải, khí thải đạt yêu cầu cho phép trong khi thực chất kết quả đó vượt tiêu chuẩn cho phép. Điều này làm cho vi phạm bị bỏ sót. Do vậy, đòi hỏi cần phải pháp lý hóa các yêu cầu về chỉ tiêu các chất gây ô nhiễm cần quan tâm trong từng ngành cụ thể để tránh tình trạng như đã nêu, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra, kiểm tra được thực hiện một cách thống nhất.

2. Một số nội dung cần điều chỉnh, bổ sung

Ngoài những hạn chế như đã phân tích nêu trên, theo chúng tôi, Nghị định hiện hành về xử phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT cần điều chỉnh, bổ sung một số nội dung sau:

Một là, điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2008 để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật.

Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2008 đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/8/2008. Nội dung các quy định sửa đổi, bổ sung đã giải quyết được cơ bản một số bất cập trong lĩnh vực xử lý VPHC nói chung và về xử lý VPHC trong lĩnh vực BVMT nói riêng, thể hiện tinh thần xử lý kiên quyết các hành vi VPHC. Để các nội dung quy định này được thực hiện trong lĩnh vực BVMT cần phải điều chỉnh bổ sung hoặc thay thế Nghị định 81/2006/NĐ-CP cho phù hợp.

Hai là, quy định cơ chế truy cứu trách nhiệm các cá nhân trong trường hợp xử lý VPHC của các tổ chức.

Hiện nay, với những công ty vi phạm nghiêm trọng luật BVMT, vi phạm nhiều lần, hậu quả lớn, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao phải bị xử lý trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, pháp luật hình sự không xử lý hình sự các tổ chức, mà xử lý VPHC lại không tương xứng với tính chất và mức độ vi phạm. Do vậy, để tạo cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân trong trường hợp xử lý VPHC các tổ chức, cần phải quy định cụ thể về việc tiếp tục truy cứu trách nhiệm hành chính những cá nhân trong tổ chức có lỗi trong việc để xảy ra VPPL. Sau khi ban hành quyết định xử lý đối với tổ chức cần phải tiếp tục làm rõ trách nhiệm của các cá nhân liên quan để có hình thức xử lý thích hợp làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự khi tiếp tục vi phạm nghiêm trọng hơn. Theo chúng tôi, như vậy vẫn đảm bảo nguyên tắc mỗi HVVP chỉ bị xử lý một lần, vì hành vi và lỗi của tổ chức là hành vi và lỗi tổng hợp, bao hàm hành vi và lỗi của nhiều cá nhân. Trong đó, có những cá nhân có hành vi và lỗi rõ ràng có thể cấu thành hành vi và lỗi riêng, độc lập, nên có thể xử lý VPHC đối với những cá nhân đó.

 (1) Lê Vương Long (2003), “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt VPHC, Đặc san về xử lý VPHC, Tạp chí Luật học – Trường Đại học Luật Hà Nội, (tháng 9/2003), tr.35.

(2) Ngô Tử Liễn (1994), “Cơ sở của trách nhiệm hành chính và vấn đề sửa đổi Điều 1 Pháp lệnh Xử phạt VPHC, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số (1), tr. 14.

(3) Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, tr.393.

(4) Nguyễn Cửu Việt, sđd, tr.394.

(5) Tiêu chuẩn nước thải công nghiệp TCVN 5945-2005.

(6) Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp TCVN 5939-1995.

(7) Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp TCVN 5940-1995.

Dư Huy Quang – Phó Chánh Thanh tra Sở Tài nguyên và môi trường thành phố Hồ Chí Minh.

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp

 (LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)