1. Herbert A. Simon

Ông Herbert Alexander Simon (15/6/1916 – 9/2/2001) là một nhà khoa học chính trị, kinh tế, xã hội học, tâm lý học người Mỹ và đặc biệt là giáo sư tại Đại học Carnegie Mellon, nơi ông có các nghiên cứu về nhiều lĩnh vực như nhận thức tâm lý, khoa học nhận thức, khoa học máy tính, hành chính, kinh tế, quản lý, khoa học triết học, xã hội học và khoa học chính trị. Với gần một ngàn ấn phẩm thường xuyên được trích dẫn, ông là một trong những nhà khoa học xã hội có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ 20.

Ông Simon là một trong những người sáng lập ra một vài lĩnh vực khoa học quan trọng ngày nay, bao gồm cả trí tuệ nhân tạo, xử lý thông tin, ra quyết định, giải vấn đề, kinh tế học sức chú ý, lý thuyết tổ chức, hệ thống phức hợp, và mô phỏng trên máy tính các phát hiện khoa học. Ông đã đặt ra thuật ngữ tính hợp lý giới hạn satisficing, và là người đầu tiên phân tích kiến trúc phức tạp và đề xuất một cơ chế đính kèm ưu đãi để giải thích các phân bố luật công suất.

Ông cũng nhận được nhiều danh hiệu cao quý trong suốt cuộc đời mình. Bao gồm: thành viên Viện hàn lâm khoa học và nghệ thuật Hoa Kỳ năm 1959; được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia vào năm 1967; giải Turing của ACM cho “đóng góp cơ bản về trí tuệ nhân tạo, tâm lý nhận thức của cong người, và xử lý danh sách”(1975); giải Nobel kinh tế “cho nghiên cứu tiên phong của ông vào quá trình ra quyết định trong các tổ chức kinh tế” (1978); huân chương Khoa học Quốc gia (1986); và giải thưởng APA cho các đóng góp nổi bật suốt đời về tâm lý học (1993).

Như một minh chứng cho phương pháp tiếp cận liên ngành của mình, Simon đã liên kết các khoa của Carnegie Mellon như Trường Khoa học máy tính Carnegie, Trường kinh doanh Tepper, khoa triết học, khoa học Xã hội và quyết định, và tâm lý học.

Ông Simon còn được nhận bằng Tiến sĩ Luật danh dự (LL.D.) từ Đại học Harvard vào năm 1990.

2. Tác phẩm chủ yếu của Simon

Herbert A. Simon là đại diện chủ yếu của lý luận quyếtsách thuộc khoa học hành vi và là một giáo sư đại học ở Mỹ. Ông đỗ cử nhân ở trường Đại học Chicago năm 1936 và đỗ tiến sĩ năm 1943 cũng ở trường ấy. Ông đã giảng dạy ở các trường Đại học Illinois, trường Đại học Harvard, trường Đại học công nghiệp M., trường Đại học Brighton. Từ năm 1961 – 1965, ông là Chủ tịch Hội đồng khoa học của Viện Khoa học xã hội Mỹ. Ông đã giảng dạy về khoa học máy tính và tâm lý học trong một thời gian dài và đã từng nghiên cứu khoa học định lượng trong kinh tế. Do có nhiều đóng góp vào lý luận quyết sách (lý luận về việc ra quyết định quản lý), ông đã được giải thưởng Nobel về kinh tế học năm 1978.

Các tác phẩm chủ yếu của ông là: “Hành vi quản lý” (1947), “Quản lý công cộng” cùng viết với s. & T. (1950), “Tổ chức” cùng viết với Maxi (1985), “Lý luận về quyết sách trong kinh tế học và khoa học hành vi” (1959), “Khoa học về nhân công” (1969), “Việc giải quyết những vấn đề của con người” cùng viết với Newill (1972), “Mô hình phát hiện” (1977), “Mô hình tư duy” (1979)…

3. Sự nghiệp Simon

Theo tư điển bách khoa, sau khi tốt nghiệp đại học, Simon nhận được chức trợ lý nghiên cứu trong quản lý thành phố, sau đó chuyển sang làm giám đốc tại Đại học California, Berkeley .

Từ năm 1942 đến năm 1949, Simon là giáo sư khoa học chính trị và cũng là chủ nhiệm khoa tại Viện Công nghệ Illinois ở Chicago. Tại đây, ông bắt đầu tham gia các cuộc hội thảo do các nhân viên của Ủy ban Cowles tổ chức , lúc đó bao gồm Trygve Haavelmo, Jacob Marschak và Tjalling Koopmans . Do đó, ông bắt đầu nghiên cứu chuyên sâu về kinh tế học trong lĩnh vực chủ nghĩa thể chế . Marschak đưa Simon đến để hỗ trợ trong nghiên cứu mà ông hiện đang thực hiện cùng với Sam Schurr về “các hiệu ứng kinh tế tiềm năng của năng lượng nguyên tử “.

Từ năm 1949 đến năm 2001, Simon là giảng viên của Đại học Carnegie-Mellon , ở Pittsburgh, Pennsylvania. Năm 1949, Simon trở thành giáo sư quản trị và chủ nhiệm Khoa Quản lý Công nghiệp tại Học viện Công nghệ Carnegie (“Carnegie Tech”), mà năm 1967, trở thành Đại học Carnegie-Mellon. Simon sau đó cũng [22] dạy tâm lý học và khoa học máy tính trong cùng một trường đại học, (thỉnh thoảng đến thăm các trường đại học khác).

Về nguyên cứu của ông, ông đã tìm cách thay thế cách tiếp cận cổ điển đã được đơn giản hóa cao đối với mô hình kinh tế, Simon được biết đến nhiều nhất với lý thuyết về quyết định của công ty trong cuốn sách Hành vi quản trị của ông . Trong cuốn sách này, ông dựa trên các khái niệm của mình với một cách tiếp cận nhận ra nhiều yếu tố góp phần vào việc ra quyết định. Sự quan tâm đến tổ chức và quản lý của ông cho phép ông không chỉ ba lần đảm nhiệm vị trí chủ nhiệm khoa đại học mà còn đóng một vai trò lớn trong việc thành lập Cơ quan Quản lý Hợp tác Kinh tế vào năm 1948; nhóm hành chính quản lý viện trợ cho Kế hoạch Marshall cho chính phủ Hoa Kỳ, phục vụ trong Ủy ban Cố vấn Khoa học của Tổng thống Lyndon Johnson, và cả Học viện Khoa học Quốc gia. [21] Simon đã có nhiều đóng góp cho cả phân tích và ứng dụng kinh tế. Do đó, công việc của ông có thể được tìm thấy trong một số tác phẩm văn học kinh tế, đóng góp vào các lĩnh vực như kinh tế toán học bao gồm định lý, tính hợp lý của con người, nghiên cứu hành vi của các công ty, lý thuyết về trật tự ngẫu nhiên và phân tích vấn đề xác định tham số trong kinh tế lượng.

4. “Hành vi quản lý” của Simon

Theo từ điển bách khoa, Simon đã định nghĩa nhiệm vụ của việc ra quyết định hợp lý là chọn giải pháp thay thế dẫn đến tập hợp ưu tiên hơn trong tất cả các hệ quả có thể xảy ra.

Do đó, tính đúng đắn của các quyết định hành chính được đo lường bằng:

  1. Khả năng đạt được mục tiêu mong muốn
  2. Hiệu quả mà kết quả thu được

Nhiệm vụ lựa chọn được chia thành ba bước bắt buộc:

  1. Xác định và liệt kê tất cả các lựa chọn thay thế
  2. Xác định tất cả các hệ quả từ mỗi phương án;
  3. So sánh độ chính xác và hiệu quả của từng nhóm hệ quả này

Bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nhất định nào đang cố gắng thực hiện mô hình này trong một tình huống thực tế sẽ không thể tuân thủ ba yêu cầu. Simon lập luận rằng kiến ​​thức về tất cả các phương án thay thế, hoặc tất cả các hệ quả xảy ra sau mỗi phương án là không thể trong nhiều trường hợp thực tế.

Simon đã cố gắng xác định các kỹ thuật và / hoặc quy trình hành vi mà một cá nhân hoặc tổ chức có thể thực hiện để đạt được gần như kết quả tốt nhất đưa ra các giới hạn về việc ra quyết định hợp lý. Simon viết:

“Con người phấn đấu cho sự hợp lý và bị hạn chế trong giới hạn hiểu biết của mình đã phát triển một số quy trình làm việc để khắc phục một phần những khó khăn này. Các quy trình này bao gồm giả định rằng anh ta có thể tách biệt khỏi phần còn lại của thế giới một hệ thống khép kín có chứa một số biến hạn chế và một loạt các hệ quả hạn chế.”

Do đó, Simon mô tả công việc dưới góc độ khuôn khổ kinh tế, với điều kiện là giới hạn nhận thức của con người: Con người kinh tế và Con người hành chính .

Hành vi Quản trị đề cập đến một loạt các hành vi của con người, khả năng nhận thức, kỹ thuật quản lý, chính sách nhân sự, mục tiêu và thủ tục đào tạo, vai trò chuyên biệt, tiêu chí đánh giá tính chính xác và hiệu quả, và tất cả các phân nhánh của quá trình giao tiếp. Simon đặc biệt quan tâm đến việc những yếu tố này ảnh hưởng như thế nào đến việc đưa ra quyết định, cả trực tiếp và gián tiếp.

Ông Simon lập luận rằng hai kết quả của một sự lựa chọn cần có sự giám sát và nhiều thành viên của tổ chức sẽ phải tập trung vào sự thỏa đáng, nhưng quản lý hành chính phải đặc biệt chú ý đến hiệu quả mà kết quả mong muốn đạt được.

Simon tiếp lời Chester Barnard , người đã nói rằng “những quyết định mà một cá nhân đưa ra với tư cách là thành viên của một tổ chức hoàn toàn khác biệt với những quyết định cá nhân của anh ta”. Các lựa chọn cá nhân có thể được xác định liệu một cá nhân có tham gia vào một tổ chức cụ thể và tiếp tục được thực hiện trong cuộc sống riêng tư ngoài tổ chức của họ hay không. Tuy nhiên, với tư cách là thành viên của một tổ chức, cá nhân đó đưa ra các quyết định không liên quan đến nhu cầu và kết quả cá nhân, mà theo nghĩa cá nhân như một phần của mục đích, mục đích và hiệu lực của tổ chức. Tất cả các biện pháp khuyến khích, khen thưởng và trừng phạt của tổ chức đều được thiết kế để hình thành, củng cố và duy trì sự nhận biết này.

Ông Simon đã xem hai yếu tố phổ biến trong hành vi xã hội của con người là chìa khóa để tạo ra khả năng thực hiện hành vi tổ chức ở các cá nhân con người: Quyền hạn (được đề cập trong Chương VII – Vai trò của Quyền lực) và trong Lòng trung thành và Nhận dạng (Đề cập trong Chương X: Lòng trung thành, và Nhận dạng tổ chức).

Quyền hạn là một dấu hiệu cơ bản được nghiên cứu kỹ lưỡng về hành vi của tổ chức, được định nghĩa một cách đơn giản trong bối cảnh tổ chức là khả năng và quyền của một cá nhân có cấp bậc cao hơn trong việc hướng dẫn các quyết định của một cá nhân ở cấp bậc thấp hơn. Các hành động, thái độ và mối quan hệ của các cá nhân thống trị và cấp dưới tạo thành các thành phần của hành vi vai trò có thể rất khác nhau về hình thức, phong cách và nội dung, nhưng không khác nhau khi mong đợi sự phục tùng của người có địa vị cao hơn và sẵn sàng tuân theo. từ cấp dưới.

Lòng trung thành được Simon định nghĩa là “quá trình theo đó cá nhân thay thế các mục tiêu của tổ chức (mục tiêu dịch vụ hoặc mục tiêu bảo tồn) cho mục tiêu của chính mình như là các chỉ số giá trị xác định các quyết định của tổ chức”. Điều này đòi hỏi phải đánh giá các lựa chọn thay thế về hậu quả của chúng đối với nhóm hơn là chỉ đối với bản thân hoặc gia đình của một người.

5. Cuốn sách “Khoa học mới về quyết sách quản lý”

Cuốn “Khoa học mới về quyết sách quản lý” là cuốn sách được hình thành trên cơ sở một loạt bài giảng của ông tại trường Đại học New York.

Ngoài lời tựa ra, cuốn sách có 5 chương, lần lượt trình bày các vấn đề như máy tính và quản lý, quá trình quyết sách của tổ chức, việc ứng dụng máy tính và kỹ thuật mới trong tổ chức xí nghiệp và trong quản lý, ảnh hưởng của máy tính và kỹ thuật mới đối với công tác quản lý và đối với xã hội.

Trong cuốn sách này, tác giả Simon không chỉ trình bày quá trình ra quyết định quản lý, vai trò của máy tính đối với quá trình quyết sách mà còn nói rõ ông đã có được kết luận về những vấn đề đó như thế nào.

– Trong chương 1, cuốn sách đã trình bày một cách đại thê việc ứng dụng máy tính và kỹ thuật mới trong xã hội, tổ chức xí nghiệp và trong quản lý. Đại đá số những vấn đề nói đến trong chương này đều được trình bày kỹ hơn trong các chương sau.

– Trong chương 2, tác giả đã phân tích quá trình quyết sách, đồng thời đứng trên góc độ phi kỹ thuật để trình bày những việc mà máy tính có thể làm hiện nay và những việc mà máy tính có thể làm trong tương lai rất gần. vai trò của máy tính trong quá trình quyết sách.

– Chương 3 trình bày ảnh hưởng tác động của máy tính và công nghệ tự động hóa như sự thoải mái mà chúng có thể mang lại cho công việc và nơi làm việc, sự khích lệ đối với công nhân, sự cách biệt của chúng với công nhân…

– Chương 4 nói về vai trò của máy tính đối với việc cải tiến công tác của giám đốc và cơ cấu tổ chức của xí nghiệp.

– Chương 5 thông qua việc trình bày hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội của công nghệ tự động hóa và tiến bộ kỹ thuật để qua đó, chứng minh một lần nữa viễn cảnh xã hội rộng lớn hơn của máy tính và công nghệ tự động hóa.

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật LVN Group (Sưu tầm và Biên soạn)