1.Cơ chế pháp lý giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại quốc tế
Luật áp dụng để xét xử tranh chấp là luật mà trọng tài dùng để xem xét việc thực hiện nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật này được gọi là luật áp dụng cho hợp đồng.
Đối với các tranh chấp thương mại nội địa, đương nhiên, luật áp dụng trong hợp đồng là luật quốc gia, chẳng hạn như ở Việt Nam thì căn cứ vào luật thương mại, pháp lênh hợp đồng kinh tế, luật đất đai… Vấn đề chọn luật áp dụng trong hợp đồng không đặt ra với các hợp đồng nội.
Trong thương mại quốc tế, luật của rất nhiều nước liên quan đến quan hệ của các bên trong hợp đồng và cùng có khả năng điều chỉnh hợp đồng ngang nhau. Giữa các nguồn luật đó luôn tồn tài hiện tượng xung đột luật, vì thế khi đưa tranh chấp ra trong tài, các bên đương sự phải thoả thuận thống nhất về luật áp dụng trong hợp đồng. Các nguồn luật áp dụng trong thương mại quốc tế bao gồm: Các điều ước quốc tế, các tập quán thương mại quốc tế và luật quốc gia.
Điều ước quốc tế: là những văn bản có chứa những quy phạm pháp luật được các quốc gia và các chủ thể khác xây dựng, ký kết, công nhận và có hiệu lực pháp lý đối với chủ thể của các quốc gia thành viên. Nó có thể là: Hiệp ước, Hiệp định, Nghị định thư, công hàm trao đổi… khi có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhưng không được quy định hoặc quy định không đầy đủ thì các bên có thể đưa điều ước quốc tế vào để xử lý vấn đề đó. Các điều ước này không có giá trị bắt buộc đối với các quan hệ thương mại quốc tế nếu như nó chưa được quốc gia đó phê chuẩn. Khi quốc gia đã phê chuẩn, tất cả những trường hợp mà hợp đồng không dẫn chiếu thì điều ước đó vẫn đương nhiên được áp dụng.
Có hai loại điều ước quốc tế trong lĩnh vực mua bán hàng hoá: Thứ nhất, loại điều ước quốc tế đề ra những nguyên tắc pháp lý chung làm cơ sở cho hoạt động thương mại, nó không điều chỉnh trực tiếp các vấn đề quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý của các bên tham gia hợp đồng mà chỉ đề ra các nguyên tắc pháp lý có tính chất định hướng, chỉ đạo: ví dụ như Hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam – EU, Hiệp định thương mại Việt Nam – Mỹ; Hiệp định cắt giảm thuế quan với ASEAN… Thứ hai, là loại điều ước quốc tế trực tiếp điều chỉnh đến các vấn đề có liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên trong ký kết và thực hiện hợp đồng. Đây chính là nguồn quy phạm pháp luật dùng để giải quyết tranh chấp, thường được các bên và cơ quan tiến hành tố tụng viện dẫn trong quá trình giải quyết tranh chấp. Loại điều ước này điển hình có Công ước Brussel 1964 về chuyên chở hàng hoá, Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế.
Tập quán thương mại: là những quy tắc xử sự có hệ thống, những thói quen thương mại phổ biến được áp dụng một cách thường xuyên, liên tục trong một thời gian dài và phải có nội dung rõ ràng mà qua đó có thể xác định được quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Các tập quán thương mại quốc tế chỉ có giá trị pháp lý và có hiệu lực bắt buộc đối với các chủ thể ký kết khi nó được quy định hoặc dẫn chiếu vào hợp đồng. Điều 135 quy tắc ICC về trọng tài quy định “Các trọng tài không chỉ áp dụng luật áp dụng mà còn phải dùng tới các điều khoản trong hợp đồng và những “Tập quán thương mại” thích hợp để giải quyết vụ việc”. Trong những luật trọng tài của các quốc gia cũng quy định như vậy.
2.Ví dụ về tập quán pháp
Một ví dụ về tập quán thương mại quốc tế thông dụng được phòng thương mại quốc tế soạn thảo và ban hành đó là các bản Incoterm: quy định về điều kiện cơ sở giao hàng. Hay là quy tắc thống nhất và thực hành tín dụng chứng từ – UCP cũng tỏ ra rất hữu dụng trong việc hướng dẫn đến một chuẩn mực quốc tế duy nhất cho quyền và nghĩa vụ của các bên.
Ngoài ra, đối với các quốc gia theo hệ thống “common law” còn có các án lệ là các quy tắc xét xử được hình thành từ thực tiễn xét xử. Khi lựa chọn luật của các quốc gia này, các chủ thể cần để ý đến những án lệ này.
3.Luật quốc gia trong thực tiễn và thực hiện hợp đồng mua bán
Luật quốc gia: trong thực tiễn và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tê, bên cạnh các điều ước quốc tế, các tập quán thương mại quốc tế và án lệ, luật quốc gia cũng đóng một vai trò khá quan trọng và trong nhiều trường hợp là nguồn luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên luật quốc gia chỉ trở thành luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trong các trường hợp sau:
– Khi các bên ký kết hợp đồng thoả thuận trong điều khoản luật áp dụng của hợp đồng việc chọn luật của một bên để điều chỉnh hợp đồng.
– Khi điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế không được quy định trong các điều ước quốc tế liên quan, luật quốc gia đương nhiên trở thành luật áp dụng cho hợp đồng đó.
Nói đến luật quốc gia như một nguồn luật của thương mại quốc tế không có nghĩa là tất cả các luật đều được áp dụng mà chỉ có một số luật, văn bản pháp luật có liên quan đến thương mại quốc tế được áp dụng, bởi vì luật quốc gia không chỉ điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế mà nó còn điều chỉnh rất nhiều mối quan hệ khác.
Luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá thông thường là luật của nước nào có quan hệ gần nhất với hợp đồng, tuy theo cách xác định, nhưng phải là luật đặc trưng, thường là luật của nước bên bán, luật của nước nơi hợp đồng được ký kết, nhưng cũng có thể là luật của bên mua, có thể là luật của nước thứ ba, luật quốc tịch, luật nơi nghĩa vụ của hợp đồng được thực hiện…
Trong quá trình đàm phán hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế điều khoản luật áp dụng thường được ghi một cách rõ ràng trong hợp đồng để tránh tình trạng khó xác đinh luật quốc gia điều chỉnh các quan hệ hợp đồng. Việc thoả thuận luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một vấn đề phức tạp, cho nên các chủ thể ký kết không những phải thông thạo luật của nước mình mà còn phải tìm hiểu kỹ luật của nước khác quan hệ với hợp đồng để đảm bảo quyền lợi của mình, tránh được những thiệt thòi do sự thiếu hiểu biết pháp luật gây ra.
Tuy nhiên việc áp dụng luật của quốc gia nào để giải quyết tranh chấp trong hợp đồng đôi khi không chỉ phụ thuộc vào ý chỉ chủ quan của một chủ thể mà thường bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác như: tương quan lực lượn giữa các bên tham gia hợp đồng, do điều kiện đặc thù khi triển khai hợp đồng đó… Trường hợp phải áp dụng luật của nước thứ ba, ít nhất phải hiểu được luật của nước đó có tiện cho người mua hay người bán, liên quan đến hợp đồng đã ký kết như thế nào, những điểm gì kiêng kị cần tránh…
Đôi khi các bên thoả thuận lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng sau khi hợp đồng đã được ký kết. Trường hợp này thường xảy ra khi ký kết hợp đồng, vì một lý do khách quan nào đó, các bên tiến hành rất nhanh chóng (để chớp thời cơ…) nên chưa kịp nêu điều khoản luật áp dụng trong hợp đồng.
Tại Việt Nam, Luật thương mại 2005 là nguồn luật quan trọng để các thương nhân Việt Nam nắm vững, áp dụng trong đàm phán ký kế hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Luật thương mại Việt Nam ra đời đã tạo một trường pháp lý vô cùng thuận lợi cho các thương nhân Việt Nam, đó là công cụ pháp lý quan trọng, là chỗ dựa pháp lý rất tin cậy cho các thương nhân Việt Nam tiến hành các hoạt động thương mại trong kinh doanh quốc tế. Do đó, trong trường hợp mặc dù hợp đồng thương mại đã được thực hiện hoặc bị vi phạm, thậm chí bị vô hiệu thì điều khoản về thoả thuận trọng tài của hợp đồng vẫn giữ nguyên giá trị pháp lý.
4.Hiệu lực của thoả thuận trọng tài
Pháp luật quốc gia và điều ưổc quốc tế, trong phạm vi nhất định, cho phép các bên đương sự thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thoả thuận giữa các bên đương sự đưa tranh chấp ra trọng tài để giải quyết được gọi là thoả thuận trọng tài.
Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và • trong Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế do uỷ ban của Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế thông qua năm 1985, các bên đương sự có thể xây dựng thoả thuận trọng tài thành một điều khoản trong hợp đồng hoặc làm- thành phụ lục kèm theo hợp đồng, thậm chí được thể hiện dưới hình thức trao đổi (hư từ, telex, telegram hoặc các hình thức trao đổi viễn thông khác, hoặc trao đổi thông qua đơn kiện và bản tự bào chữa trong đó tồn tại thoả thuận do một bên đưa ra mà bên kia không từ chòi. Thoả thuận Trọng tài có thể được lập khi ký hợp đồng hoặc sau khi ký hợp đồng, thậm chí trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Pháp luật các nước về trọng tài cũng thừa nhận như vậy (Điểu 1444 Bộ luật TỐ tụng dân sự hiện hành của Pháp; Điều 16 luật Trọng tai Trung Quốc năm 1994; khoản 2 Điều 3 Nghị định sô’ 116/CP ngày 5-9-1994 của Chính phủ Việt Nam về Trọng tài kinh tế )
Pháp luật tất cả các nước đều quy định thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Ví dụ, Điều 1443 Bộ luật Tô’ tụng dân sự hiện hành của Pháp quy định “Điều khoản trọng tài vô hiệu khi không được lập bằng văn bản trong thoả thuận chính hoặc trong tài liệu tham chiếu”; Điểu 7 Luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế được uỷ ban của Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế thông qua ngày 21-6- 1985 khẳng định “Thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản”; pnáp luật Việt Nam (khoản 2 Điều 3 Nghị định sô’ 116/CP ngày 5-9-1994) và pháp luật Trung Quốc (Điều 16 Luật Trọng tài năm 1994),.., đều quy định tương tự như vậy.
Để được, công nhận là có giá trị pháp lý, thoả thuận trọng tài còn phải được ký kết bởi những người có thẩm quyền như người đại diện hợp pháp của chủ thể kinh doanh hoặc người được đại diện hợp pháp của chủ thể kinh doanh uỷ quyền hợp pháp. Những người này đương nhiên phải có đầy đủ năng lực hành VÍ dân sự theo quy định của pháp luật của nước mà chủ thể kinh doanh mang quô’c tịch.
Thoả thuận trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi nó được hình thành trong khuôn khố do pháp luật hoặc điểu ưốc quốc tê quy định. Điều đó có nghĩa là các bên đương sự chỉ được phép thoả thuận đưa ra trọng tài giải quyết những vấn đề nằm trong phạm vi pháp luật của các nưốc liên quan cho phép sử dụng, trọng tài để giải quyết. Trong trường hợp đó, toà án không có quyền bác bỏ hay xét lại thoả thuận trọng tài. Thoả thuận trọng tài giữa hai bên đương sự không ràng buộc bên thứ ba.
5.Đặc điểm của thỏa thuận trọng tài
Đặc điểm của thoả thuận trọng tài thể hiện ở chỗ các bên thoả thuận chịu sự ràng buộc đốỉ với thoả thuận, không có quyền tự tiện từ bỏ việc chuyển tranh chấp ra trọng tài để giải quyết. Thoả thuận trọng tài là một bộ phận cấu thành của hợp đồng nhưng có tính độc lập về mặt pháp lý. Hiệu lực của thoả thuận trọng tài độc lập với hiệu lực của hợp đồng. Khi hợp đồng được thay đổi nội dung, gia hạn hay vô hiệu từng phần, thậm chí vô hiệu toàn bộ thì thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đốỉ vối các bên đương sự trong việc giải quyết các vấn đề thuộc nội dung của hợp đồng.
Luật LVN Group ( sưu tầm và biên tập)