Trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tình hình tội phạm ở Việt Nam trong những năm qua và dự báo trong thời gian tới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong đó nêu rõ định hướng chính sách hình sự của chúng ta: duy trì hình phạt tử hình nhưng “hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện của nước ta và xu hướng giảm dần, tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trên thế giới.

Nghiên cứu hình phạt tử hình trong luật hình sự thế giới qua các thời kì lịch sử giúp chúng ta hiểu hơn về tình hình quy định và áp dụng hình phạt tử hình của các quốc gia khác trên thế giới trong quá khứ và hiện tại. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình giảm dần tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình.

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến - 1900.0191

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua điện thoạigọi:  1900.0191

1. Hình phạt tử hình trong luật hình sự thế giới thời kỳ cổ đại

– Hình phạt tử hình trong luật hình sự thời kỳ cổ đại ở Phương Đông

Thời kỳ này, ở Phương Đông đã sớm xuất hiện hình thức nhà nước chiếm hữu nô lệ sơ khai đầu tiên. Do được hình thành trên cơ sở điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng nhưng vô cùng khắc nghiệt và được xây dựng trên nền tảng chế độ thủ lĩnh độc đoán, gia trưởng với tín ngưỡng truyền thống và tôn giáo đa thần, coi người đứng đầu nhà nước là thánh nhân – con của các vị thần – có quyền uy và phép lạ, nhà nước và pháp luật ở các nước Phương Đông thời kỳ này thể hiện bản chất độc tài, chuyên chế, các quy phạm hình luật khắc nghiệt và cứng nhắc. Điều đó thể hiện rõ qua hai bộ luật của Phương Đông thời kỳ này là Bộ luật Hammurapi và Bộ luật Manu.

Bộ luật Hammurapi là Bộ luật cổ nhất của người Babilon, được tạc vào thời vua Hammurapi (1792-1750 tr. CN) trên một phiến đá bazan cao 2.25 m và đường kính đáy gần 2 m. Bộ luật có 282 điều, trong đó có nhắc tới 30 trường hợp bị xử tử hình đối với phạm nhân[1]. Các điều luật về hình sự thể hiện rõ tính báo thù với quan niệm mức hình phạt phải luôn tương xứng với mức độ tội ác. Điều 229 Bộ luật này quy định: “Nếu người thợ xây, xây nhà cho một người khác mà người thợ xây không chắc chắn để nhà đổ và chủ nhà bị chết, người thợ xây đó bị giết”. Hay Điều 1 và Điều 3 quy định: “kẻ nào buộc tội vô cớ về tội giết người cho người khác thì chính kẻ đó bị giết”; “nếu ai chứa chấp hay giúp đỡ nô lệ chạy trốn thì cũng bị tội chết”…[2]. Hình thức thi hành hình phạt tử hình thời kỳ này rất khắc nghiệt như đốt, dìm dưới nước hoặc đóng cọc…

Vào khoảng thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ I tr. CN, ở Ấn Độ cổ đại, các giáo sĩ Bàlamôn đã soạn ra các luật Manu. Tên gọi Manu được lấy từ tên của vị thần sinh ra con người theo truyền thuyết Ấn Độ. Các luật Manu gồm 2.650 điều, chia làm 12 chương, được trình bày dưới dạng câu song vần. Về hình luật, trong các luật Manu thể hiện rõ tính giai cấp và sự khắc nghiệt. Các đẳng cấp dưới như Vaisia và Sudra không được hưởng sự khoan dung, mọi vi phạm do họ gây ra đều phải chịu hình phạt rất nặng như bị cắt lưỡi, bị đổ dầu đun sôi vào miệng. Trong khi đó, đẳng cấp Bàlamôn và Kxatơria nếu vi phạm như kẻ dưới thì chỉ bị phạt tiền. Luật Manu trừng phạt rất nặng hành vi xâm phạm sở hữu: trộm cắp đến lần thứ 3 thì bị tử hình, nếu trộm cắp vào ban đêm thì bị đóng cọc, trộm cắp tài sản của nhà vua hay nhà chùa thì bị giết ngay lập tức. Tội cướp được coi như tội phạm đặc biệt. Nếu cướp công khai và có sử dụng bạo lực đối với người bị hại thì “bị giết cùng với bạn bè và người thân theo họ bố và họ mẹ”. Tội giết người ít được nói tới trong các luật Manu, nhưng trong luật Arhasastra thì nêu rõ: “Nếu kẻ nào dùng bạo lực giết đàn ông hoặc đàn bà… thì kẻ đó bị thiêu trên cọc”. Tội hiếp dâm cũng bị trừng trị như vậy. Kẻ nào vô ý làm chết người thì bị xử tử bằng cách thông thường.[3]

Trong pháp luật Phương Đông cổ đại không phân định rõ ranh giới giữa hình luật, dân luật và luật tố tụng. Các quy phạm hình luật thời kỳ này mang nặng tính trấn áp, báo thù, khắc nghiệt và tàn khốc.

– Hình phạt tử hình trong luật hình sự thời kỳ cổ đại ở Phương Tây

Bộ luật nổi tiếng và điển hình cho pháp luật phương Tây thời cổ đại là luật La Mã. Trong thời kỳ cộng hòa sơ kỳ, do phong trào đấu tranh của bình dân nên năm 450 tr. CN, một ủy ban biên soạn pháp luật được thành lập gồm 5 quý tộc và 5 bình dân. Sau một năm làm việc, ủy ban này đã soạn thảo xong bộ luật và được ghi trên 12 bảng đồng đặt tại quảng trường thành phố (nên còn gọi là Luật 12 bảng). Bộ luật này phản ánh sâu sắc quan hệ kinh tế và xã hội giai đoạn đầu của nhà nước cộng hòa La Mã: vẫn thừa nhận hình thức trả thù ngang bằng (đây là tàn dư của chế độ thị tộc), thừa nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản. Trong Luật 12 bảng, các chế định liên quan đến hình sự chủ yếu bảo vệ quyền sở hữu của giai cấp quý tộc: nếu đánh gãy tay người khác thì thủ phạm cũng bị đánh gãy tay… Kẻ nào xâm phạm tài sản của người khác như đốt nhà, trộm cắp, phá hoại hoa màu thì sẽ bị xử tử. Nếu kẻ nào đương đêm ăn trộm mà bị giết ngay tại chỗ thì hành vi giết người ấy được coi là hợp pháp (Bảng 8 Điều 12). Điều kiện để đảm bảo hợp đồng vay nợ là thịt, da và máu của con nợ. Nếu con nợ không trả nợ đúng hạn thì Tòa án cho phép chủ nợ có quyền tạm giữ con nợ. Nếu quá 60 ngày mà không trả được nợ thì chủ nợ có thể xẻo thịt thân thể con nợ, chủ nợ không phải chịu trách nhiệm về việc con nợ bị xẻo thịt nhiều hay ít. Sau đó nếu con nợ vẫn không trả được nợ thì bị kết án tử hình. Trường hợp con nợ vay nợ của nhiều người, các chủ nợ băm con nợ ra thành nhiều mảnh (Bảng 3 Điều 6). Những quy định này bảo vệ tuyệt đối quyền sở hữu của giai cấp quý tộc, đồng thời đó cũng là mối đe dọa khủng khiếp đối với người lao động nghèo khổ ở La Mã.

Đến thời kỳ cộng hòa hậu kỳ, nền luật học La Mã đã bước sang giai đoạn thịnh vượng nhất, Luật 12 bảng trở nên lạc hậu, nguyên tắc công bằng, bình đẳng trước pháp luật đã dần dần được chấp nhận. Các chế định về luật dân sự trong thời kỳ này rất phát triển. Về hình sự, phần lớn các quy phạm pháp luật hình sự điều chỉnh các quan hệ chính trị. Ví dụ: trong thời kỳ độc tài Xila, những người bị nghi vào danh sách “kẻ thù của nhân dân” thì bất kỳ người dân La Mã nào cũng có thể giết. Hình phạt tử hình thời kỳ này vẫn mang tính chất cực hình và ô nhục, tùy thuộc vào giai cấp mà hình phạt được áp dụng theo cách thức khác nhau: nếu quý tộc và binh lính thì bị chém bằng gươm, dân tự do bị chết thiêu hoặc cho ngựa xé, còn nô lệ thì bị giết chết dần rất khủng khiếp như đóng cọc xuyên qua người, dìm xuống nước cho đến chết…[4].

2. Hình phạt tử hình trong luật hình sự thế giới thời kỳ trung đại

Trong thời kỳ này, ở Phương Đông, pháp luật của các triều đại phong kiến Trung Quốc phát triển mạnh và có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quốc gia trong khu vực (Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản…), đó là sự xuất hiện các học thuyết pháp lý như thuyết nhân trị của Khổng Tử, thuyết pháp trị của Quản Trọng, Tử Sản và Hàn Phi Tử. Tùy thuộc vào từng triều đại bị ảnh hưởng bởi thuyết nhân trị hay thuyết pháp trị mà tính nghiêm khắc của hình phạt trong luật hình sự được thể hiện ở các mức độ khác nhau. Nhưng nhìn chung, các triều đại phong kiến Trung Quốc đều quy định hệ thống hình phạt “ngũ hình” bao gồm các hình phạt: xuy, trượng, đồ, lưu, tử. Trong đó hình phạt tử hình có ba bậc: chém hay thắt cổ; chém bêu đầu và lăng trì. Hình phạt chém bêu đầu có nguồn gốc tại Trung Quốc và có lịch sử trên 3.000 năm (năm 1154 tr. CN, Trụ Vương đã bị Võ Vương giết rồi bêu đầu trên một lá cờ trắng) và nó còn tồn tại trong bộ “Đại Thanh luật lệ” được vua Càn Long ban hành năm 1740. Hình phạt lăng trì (tùng xẻo) được thi hành bằng cách xẻo từng miếng thịt phạm nhân theo nhịp trống rồi mổ bụng, moi ruột cho đến chết. Sau đó, thi thể tử tội bị chặt chân tay và bẻ gãy hết xương.[5] Ngoài ra, nhà nước phong kiến Trung Quốc còn áp dụng các hình phạt như tru di tam tộc, tru di cửu tộc. Các hình phạt này chủ yếu áp dụng cho tội phản nghịch, mang tính ác nghiệt, man rợ và tàn khốc.

Ở Phương Tây, thời kỳ này, luật hình sự vẫn cho phép duy trì tục “trả nợ máu”. Theo Bộ luật Xalic: khi phạm tội giết người, nếu người phạm tội là kẻ nghèo hèn đến mức không đủ tiền nộp phạt và không có họ hàng thì “phải lấy đầu mình ra để thay thế”. Còn theo Bộ luật Xắc-xông thì đối tượng của việc trả nợ máu là “kẻ giết người và các con trai của người ấy”. Pháp luật còn quy định cụ thể thời gian chờ trả thù (khác nhau ở mỗi nước, nhưng nhìn chung nó kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định với mục đích làm giảm bớt tính hung hãn của người trả thù và tạo điều kiện cho kẻ giết người chuộc tội), và những người được trả thù (cha, con trai, anh em trai ruột thịt mới được trả thù cho người bị hại). Ngoài ra, pháp luật hình sự cũng quy định việc bảo vệ nghiêm ngặt chế độ phong kiến: Nếu giết người thân thích của nhà vua thì kẻ giết người bị tước đoạt toàn bộ tài sản và phải chịu hình phạt tử hình (trong khi đó nếu giết thường dân có thể được nộp phạt bằng tiền); tội phản quốc hoặc trộm cắp tài sản nhà nước là trọng tội. Bên cạnh đó, pháp luật cũng bảo vệ nghiêm ngặt sự thống trị về mặt tư tưởng của Giáo hội hay luật lệ tôn giáo: coi hành vi chống lại nhà thờ, luật lệ tôn giáo, trộm cắp tài sản của nhà thờ là trọng tội (như trường hợp Galileo Galilei đã bị tòa án giáo hội kết án tử hình bằng cách hỏa thiêu do có quan điểm khoa học chống lại nhà thờ). Thường thì Tòa án áp dụng hình phạt tử hình đối với những người phạm trọng tội bằng cách gây đau đớn kéo dài, mà hình phạt này thì lại không được quy định trong luật[6].

3. Hình phạt tử hình trong luật hình sự thế giới thời kỳ cận đại

Năm 1789, sau cuộc cách mạng tư sản Pháp, luật hình sự Pháp bắt đầu thay đổi cơ bản với mục đích đòi hỏi quyền bình đẳng trước luật hình sự, giảm nhẹ hình phạt, không xử phạt người thân thích của người phạm tội, không xử phạt các tội phạm tín ngưỡng và tội vi phạm đạo đức… Sau 2 năm soạn thảo, Bộ luật hình sự 1791 của Pháp ra đời với những nội dung tiến bộ: giảm thiểu sự khắc nghiệt của hình phạt, thiết lập sự bình đẳng của công dân trước pháp luật, quy định nguyên tắc pháp căn (có luật có tội). Các quan điểm này đã đi ngược lại lợi ích của chế độ phong kiến nên năm 1808, Napoleon đã phê chuẩn ủy ban pháp điển luật hình sự và đến năm 1810, Bộ luật hình sự Pháp được ban hành. Bộ luật này đã kế thừa nguyên tắc của luật hình sự, dấu hiệu của hành vi phạm tội trong Bộ luật hình sự 1791, nhưng lại quy định án tử hình đối với rất nhiều tội danh (36 trường hợp), trong đó có cả án chính trị, bảo lưu các hình phạt làm nhục dưới dạng đóng dấu, bêu cột, chặt tay… Hiến pháp năm 1848 đã xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm về chính trị, nhưng đến năm 1960 hình phạt tử hình lại được thiết lập lại đối với tất cả các tội xâm phạm an ninh nhà nước[7] (đến năm 1981, Pháp đ chnh thức xỉa bỏ hnh phạt tử hnh cho tới ngđy nay)[8].

Ở Anh, vào đầu thế kỷ XIX, các đạo luật quy định hình phạt tử hình gần như cho mọi tội danh (năm 1819, Hạ nghị viện Anh đã xác định hình phạt tử hình được quy định đối với 220 loại tội phạm)[9]. Hình phạt tử hình không chỉ quy định đối với tội giết người, cướp của mà cả đối với các tội xâm phạm súc vật, đe dọa bằng văn bản, chặt gỗ rừng, thậm chí là ăn cắp vặt vài xu… Việc thi hành án tử hình được thực hiện hết sức man rợ như cho xe cán, chặt tứ chi và đầu, mổ bụng moi lục phủ ngũ tạng… Đến năm 1841, luật hình sự Anh bắt đầu quy định giảm hình phạt tử hình.

Nhìn chung, ở các nước phương Tây, vào thế kỷ XVIII đã có những cố gắng đầu tiên trong việc áp dụng hình phạt nhằm cải tạo tù nhân. Tuy chúng không đem lại những kết quả mong muốn song đã dẫn tới ý tưởng quan trọng: buộc tù nhân phải cải tạo lao động với một chế độ nhà tù nghiêm khắc có thể đem lại thu nhập, thay vì áp dụng hình phạt tử hình. Sau đó, các cường quốc châu Âu đã thay thế việc giam giữ bằng việc đày phạm nhân đến các nước thuộc địa nhằm giảm bớt gánh nặng cho các nhà tù và giải quyết một phần nhu cầu về sức lao động nặng nhọc ở các nước thuộc địa. Bằng việc biến sự cầm tù thành hình phạt chủ yếu và đưa phạm nhân đi đày ở các nước thuộc địa đã hạn chế hình phạt tử hình trong luật hình sự các nước Tây Âu. Hơn nữa, dưới áp lực của xã hội, chính phủ một loạt các nước chỉ còn quy định hình phạt tử hình cho một số lượng nhỏ tội danh – đó là vấn đề mà các nhà dân chủ, các nhà khai sáng và tự do châu Âu từ lâu đòi hỏi[10]. Từ đó, xu hướng giảm dần tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình ở các nước Tây Âu ngày càng phát triển và mở rộng cho tới ngày nay[11].

4. Hình phạt tử hình trong luật hình sự thế giới hiện đại

Hiện nay, việc duy trì hay bãi bỏ hình phạt tử hình vẫn còn là một vấn đề được pháp luật hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm. Tùy thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và quan điểm của nhà làm luật, ở mỗi quốc gia khác nhau có các quy định khác nhau về vấn đề này.

Theo báo cáo của Tổ chức Ân xá quốc tế (Amnesty International), tính đến ngày 06.8.2006, trên thế giới có 88/197 (45%) quốc gia và vùng lãnh thổ (sau đây gọi chung là các quốc gia) đã xóa bỏ hình phạt tử hình đối với tất cả các tội phạm; 11/197 (6%) quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm thường, chỉ quy định hình phạt tử hình đối với các tội phạm chiến tranh; 30/197 (15%) quốc gia tuy vẫn quy định hình phạt tử hình trong luật hình sự nhưng từ năm 1999 đến nay không áp dụng hình phạt tử hình trên thực tế; 68/197 (34%) quốc gia vẫn duy trì hình phạt tử hình trong luật và áp dụng trên thực tế[12].

Như vậy, hiện nay trên phạm vi toàn thế giới, đã có 88 quốc gia không quy định hình phạt tử hình trong luật hình sự đối với tất cả các tội phạm. Con số này có xu hướng gia tăng ngày càng nhanh. Nếu tính từ thời điểm quốc gia đầu tiên xóa bỏ hình phạt tử hình vào năm 1863 (Venezuela) đến năm 1969 (Vatican xóa bỏ hình phạt tử hình), trải qua 106 năm, chỉ có khoảng 21 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình. Nhưng kể từ đầu những năm 1970 trở lại đây, xu hướng xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự ngày càng gia tăng rõ nét. Trong thập niên 1970, trên thế giới có 7 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình, thập niên 1980 có 11 quốc gia; đến thập niên 1990, con số này tăng lên là 34 quốc gia (riêng năm 1990 có 9 quốc gia) và từ năm 2000 đến tháng 8.2006, có 15 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình. Sở dĩ từ năm 1990 có sự gia tăng số lượng các quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình, một phần vì năm 1989 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị định thư không bắt buộc thứ hai của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, về việc hủy bỏ án tử hình (tính đến ngày 20.9.2006, Nghị định thư này đã có 58 quốc gia thành viên và 8 quốc gia đã ký nhưng chưa phê chuẩn)[13]. Hơn nữa, phần lớn các quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình trong những thập niên gần đây thuộc Liên minh Châu Âu, vì theo quy chế của Tổ chức này, việc xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự là một trong những tiêu chí quan trọng để xét gia nhập. Vì vậy, sau năm 1990, một loạt các nước Đông Âu trước đây khi gia nhập Liên minh Châu Âu đã xóa bỏ hình phạt tử hình (Croatia, Cộng hòa Czech, Hungary, Cộng hòa Slovakia, Bulgaria, Moldova…). Hiến chương về các quyền cơ bản của Liên minh Châu Âu năm 2000 tuyên bố: “Nhân phẩm của con người là bất khả xâm phạm. Nó phải được tôn trọng và bảo vệ” (Điều 1); “Tất cả mọi người có quyền được sống, không ai có thể bị kết án tử hình hoặc thi hành án tử hình” (Điều 2).

Cũng trên xu thế xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự, hiện nay có 11 quốc gia chỉ xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm thường (xâm phạm tính mạng, sức khỏe, sở hữu, trật tự, an toàn công cộng…) và vẫn quy định hình phạt tử hình đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Cook Islands, Israel, Brazil, Fiji, Peru, El Salvador, Argentina, Bolivia, Latvia, Albania, Chile). Hầu hết các quốc gia này, kể từ khi tuyên bố xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm thường đến nay đã không áp dụng hình phạt tử hình đối với tất cả các tội phạm (ngoại trừ Israel tuyên bố xóa bỏ hình phạt tử hình đối với tội phạm thường năm 1954, và thi hành hình phạt tử hình lần cuối là năm 1962). Đây có thể được coi là một bước đệm để tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình đối với tất cả các tội phạm trong luật hình sự (trong số 88 quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình thì có 23 quốc gia trước đó đã xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phạm thường)[14].

Ngoài 99 quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình đối với tất cả các tội phạm và đối với các tội phạm thường, hiện nay trên thế giới có 30 quốc gia tuy vẫn quy định hình phạt tử hình trong luật hình sự, nhưng cách đây từ vài năm đến vài chục năm đã không áp dụng và không thi hành hình phạt tử hình trên thực tế. Trong số các quốc gia này, nước áp dụng hình phạt tử hình gần đây nhất là Bahrain (1996), Kyrgyzstan (1998), Liên bang Nga (1999) và nước áp dụng hình phạt tử hình cách nay lâu nhất là Papua New Guinea (1950), Maldives (1952), Brunei (1957), Madagascar (1958)[15]…

Việc phân tích những dữ liệu trên đây cho thấy: xu hướng của phần lớn các quốc gia trên thế giới hiện nay là tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự. Nhưng tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị và đạo đức, tôn giáo khác nhau mà mỗi quốc gia có các cách xử lý khác nhau về vấn đề này. Một số quốc gia mạnh dạn đi đầu trong việc xóa án tử hình cho tất cả các tội phạm (chủ yếu là các nước ở châu Âu và Mỹ La tinh); một số quốc gia khác còn thể hiện thái độ dè dặt khi hủy bỏ án tử hình nên chỉ hủy bỏ đối với các tội phạm thường hoặc không áp dụng trong thực tế nhưng vẫn quy định trong bộ luật hình sự của mình với tính chất răn đe.

Tuy nhiên, trên thế giới vẫn còn 68 quốc gia quy định và thi hành hình phạt tử hình, chủ yếu ở châu Á, Trung Đông và châu Phi. Trên thực tế, không phải tất cả các quốc gia nằm trong danh sách này đều thi hành án tử hình hàng năm. Theo thống kê của Tổ chức Ân xá quốc tế, từ năm 1980 đến năm 2005: năm có số quốc gia thi hành án tử hình cao nhất là năm 1985 (với 44 quốc gia) và năm có số quốc gia thi hành án tử hình thấp nhất là năm 2005 (với 22 quốc gia). Trong số các quốc gia có thi hành hình phạt tử hình trên thực tế thì số lượng án tử hình cũng chỉ tập trung vào một số quốc gia nhất định: mỗi năm chỉ có từ một đến bốn quốc gia có trên 100 tử tội bị hành quyết, nhưng lại chiếm từ 56% đến 94% số người bị tử hình trên toàn thế giới. Các quốc gia tập trung số lượng tử tội bị hành quyết nhiều nhất hiện nay là Trung Quốc, Iran, Saudi Arabia, Mỹ và Việt Nam. Ví dụ: năm 2005, toàn thế giới có 2.148 người bị hành quyết ở 22 quốc gia, thì có 1.770 người bị hành quyết ở Trung Quốc, 94 người ở Iran, 86 người ở Saudi Arabia và 60 người ở Mỹ. Như vậy, trong năm 2005, riêng bốn quốc gia này đã hành quyết 2010 người, chiếm 94% tổng số người bị hành quyết trên toàn thế giới. Số tử tội bị hành quyết mỗi năm cũng có sự chênh lệch đáng kể. Từ năm 1980 đến 2005, năm có số người bị hành quyết thấp nhất là 1986 (743 tử tội) và 1987 (769 tử tội); năm có số người bị hành quyết cao nhất là 2004 (3.797 tử tội) và 1996 (4.272 tử tội). Đây là con số thống kê được của Tổ chức Nhân quyền thế giới, con số trên thực tế còn lớn hơn nhiều[16].

Nghiên cứu về tình hình thi hành và áp dụng hình phạt tử hình hiện nay trên thế giới, chúng ta cũng cần nói đến tình trạng một số quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự, sau đó lại khôi phục. Tiêu biểu cho các quốc gia này là Philippines: năm 1987, Philippines là quốc gia đầu tiên ở châu Á xóa bỏ hình phạt tử hình đối với tất cả các tội phạm. Tuy nhiên, do tình hình tội phạm gia tăng nên năm 1993, hình phạt tử hình được khôi phục, nhưng đến tháng 6.2006 Philippines lại chính thức xóa bỏ hình phạt tử hình[17]. Ngoài ra, còn có Indonesia, Nepal, Gambia, Papua New Guinea… là những quốc gia đã khôi phục hình phạt tử hình sau khi xóa bỏ. Trong những năm gần đây, trước tình hình bất ổn về chính trị, khủng bố gia tăng, sức ép của dư luận xã hội… một số quốc gia đang cân nhắc việc khôi phục hình phạt tử hình (Australia, New Zealand…).

Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc bãi bỏ, duy trì hay khôi phục hình phạt tử hình đang thu hút được mối quan tâm chung của nhân loại. Ở Việt Nam, vấn đề này cũng đang được Nhà nước, xã hội và giới luật học đặc biệt quan tâm.

Nghiên cứu về hình phạt tử hình trong luật hình sự thế giới qua các thời kỳ, ta thấy đây không chỉ là vấn đề pháp lý hình sự mà còn liên quan đến các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội và bị ảnh hưởng bởi các yếu tố lịch sử, văn hóa, tôn giáo, đạo đức và dư luận xã hội… Vì vậy, việc duy trì hay bãi bỏ hình phạt tử hình không nên phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà làm luật mà cần phải cân nhắc thận trọng các yếu tố trên.

________________________________________

[1] Nguyễn Ngọc Đào chủ biên, Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật thế giới, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997, tr. 43.

[2] Hoàng Thị Bích Thảo, Hình phạt tử hình trong BLHS 1999, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp. HCM, 2005, tr. 29-30.

[3] Nguyễn Ngọc Đào, sđd, tr. 47-48.

[4] Nguyễn Ngọc Đào, sđd,  tr. 69-75.

[5] Nguyễn Quang Quýnh, Hình luật tổng quát, Lửa Thiêng, in lần thứ 2, tr. 51.

[6] Nguyễn Ngọc Đào,  sđd, tr. 133-136.

[7] Thông tin Khoa học Pháp lý (2002), Chuyên đề những vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, Số 8/2002, Bộ Tư pháp, tr. 94.

[8] http://web.amnesty.org/pages/deathpenalty-countries-eng.

[9] Thông tin Khoa học Pháp lý (2002), Sđd, tr. 71.

[10] Nguyễn Ngọc Đào, sđd, tr. 317-321.

[11] Cuối thế kỷ XVIII, một số chính trị gia đã lên tiếng phản đối hình phạt tử hình, tiêu biểu như: Montesquieu (Pháp), Beccaria (Ý), Voltair, Jeremy Bentham (Anh)… Hưởng ứng trào lưu này, một số quốc gia đã xóa bỏ hình phạt tử hình trong các bộ luật hình sự của họ như: Venezuela (1863), San Marino (1865), Costa Rica (1877)… (Tham khảo: Phạm Văn Beo, Một số suy nghĩ về hình phạt tử hình, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2002, tr. 25).

[12] http://web.amnesty.org/pages/deathpenalty-countries-eng.

[13] Theo Báo cáo của tổ chức ân xá quốc tế (http://web.amnesty.org/pages/deathpenalty).

[14] http://web.amnesty.org/pages/deathpenalty.

[15] http://web.amnesty.org/pages/deathpenalty.

[16]  Tháng 3.2005, Liu Renwen – một chuyên gia lập pháp nổi tiếng của Trung Quốc đã nói rằng: khoảng 8.000 người bị thi hành hình phạt tử hình trong một năm ở Trung Quốc (http://web.amnesty.org/pages/deathpenalty-developments2005-eng). Con số này cao gần gấp đôi số người bị hành quyết một năm trên toàn thế giới mà Tổ chức Nhân quyền thế giới thống kê được (cao nhất là năm 1996 với 4.272 tử tội). Phần lớn các quốc gia này đều coi số lượng án tử hình thi hành hàng năm là bí mật quốc gia.

[17] Ngày 20.9.2006, Philippines đã ký Nghị định thư thứ hai của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 về xóa bỏ án tử hình (http://web.amnesty.org/pages/deathpenalty).
Tạp chí Khoa học pháp lý – Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)