1. Hình phạt là gì? Quy định hình phạt nhằm mục đích gì?

– Cơ sở pháp lý: Điều 30 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Theo đó hình phạt được quy định như sau:

Điều 30. Khái niệm hình phạt

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.

Theo điều luật trên, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta, có nhiều biện pháp cưỡng chế, ví dụ như xử phạt hành chính, buộc bồi thường thiệt hại về tài sản, xử lý kỷ luật theo pháp luật hành chính hay pháp luật dân sự… Tuy nhiên, so với các biện pháp cưỡng chế khác thì hình phạt trong pháp luật hình sự là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước.

Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng các hình phạt nghiêm khắc của nhà nước là Tòa án. Khi thông qua bản án, quyết định của Tòa án, đối tượng phải chấp hành hình phạt là người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, những đối tượng này sẽ bị tước bỏ hoặc bị hạn chế quyền, lợi ích của mình. Chỉ có chế tài hình sự do pháp luật hình sự quy định thì một người mới bị bắt giam, bị tước quyền tự do, bị cải tạo hoặc bị tước cả quyền sống của mình.

Tòa án ở đây được hiểu là Tòa án có thẩm quyền đối với từng vụ án cụ thể theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Vì những tính chất đặc thù của tội phạm (chỉ được quy định trong Bộ luật hình sự) nên việc áp dụng chế tài hình phạt so với các chế tài khác không nhiều. Do đó, quá trình để đưa ra hình phạt cụ thể đối với tội phạm thường khó khăn, phức tạp hơn so với quá trình áp dụng những chế tài khác.

– Mục đích của hình phạt như sau:

Điều 31. Mục đích của hình phạt

Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Thứ nhất, theo điều luật trên trước hết hình phạt nhằm trừng trị người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Biện pháp trừng trị đã được quy định trong hệ thống hình phạt, trong đó biện pháp nghiêm khắc nhất là tử hình người phạm tội. Hình phạt tử hình luôn trừng trị trực tiếp người phạm tội, ngoài ra biện pháp này còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Các loại hình phạt khác tuy có mục đích trừng trị, nhưng nội dung chủ yếu của nó là cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Ngay hình phạt tù chung thân cũng không nhằm buộc người phạm tội phải chấp hành hình phạt suốt đời trong trại giam, nếu họ cải tạo tốt thì vẫn có thể được xét giảm theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, hình phạt mang tính chất giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Đây cũng được xem là mục đích chính và là nội dung cơ bản của bản chất hình phạt trong luật hình sự nước ta. Mục đích này không chỉ được thể hiện ngay trong nội dung các loại hình phạt mà nó còn được thể hiện ngay trong chế định khác của Bộ luật hình sự, đặc biệt là các chế định về quyết định hình phạt, các chế định về miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, về đặc xá, về xóa án tích và các quy định về thi hành án phạt tù trong trại cải tạo… Tất cả các quy định cũng chỉ nhằm một mục đích là cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.

Thứ ba, mục đích của hình phạt nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. HÌnh phạt đối với người phạm tội không chỉ mang mục đích trừng trị chính người phạm tội hay giáo dục người phạm tội (trường hợp hình phạt tiền, cảnh cáo, cải tạo không giam giữ…) hoặc giáo dục người khác mà nội dung của mục đích này không nhằm vào người hoặc pháp nhân phạm tội mà nhằm vào cộng đồng xã hội, có tính chất răn đe và phòng ngừa. Mọi người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhìn vào hình phạt để có những xử sự đúng đắn, tôn trọng pháp luật, nếu không họ cũng có thể bị xử phạt như người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Nhà nước đặt ra hình phạt để áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, đồng thời nhắc nhở mọi người dân trong xã hội hoặc pháp nhân thương mại trong cộng đồng xã hội chớ có phạm tội, nếu có ý định phạm tội thì phải dừng lại, nếu không dừng ắt phải chịu hậu quả thích đáng.

 

2. Những hình phạt cho người phạm tội

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.

Hình phạt đối với người phạm tội được quy định bao gồm: 07 hình phạt chính và 07 hình phạt bổ sung.

Theo đó hình phạt chính bao gồm:

1. Hình phạt chính bao gồm:

a) Cảnh cáo;

Đây có thể là hình phạt nhẹ nhất trong các hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự. Theo quy định của Bộ luật, cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng (Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm) và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.

b) Phạt tiền.

Đây là hình phạt đánh vào kinh tế của người phạm tội có liên quan đến kinh tế, tài chính. Theo đó, hình phạt tiền được quy định như sau:

Điều 35. Phạt tiền

1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây:

a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định;

b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.

2. Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này quy định.

3. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng.

4. Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 77 của Bộ luật này.

c) Cải tạo không giam giữ;

Cải tạo không giam giữ trong bộ luật hình sự được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng (Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm), phạm tội nghiêm trọng (Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù) do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

d) Trục xuất;

Trục xuất được áp dụng đối với người không phải công dân Việt Nam, theo đó trụ xuất được quy định như sau:

Điều 37. Trục xuất

Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể.

đ) Tù có thời hạn;

Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. có thể là 1 đến 20 năm hoặc 30 năm theo quy định của pháp luật. Cụ thể được quy định như sau:

Điều 38. Tù có thời hạn

1. Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định.

Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm.

Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù.

2. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.

e) Tù chung thân;

Tù chung thân là hình phạt nghiêm khắc hơn cả các hình phạt trên, tuy nhiên chưa đến mức người bị phạt tù chung thân sẽ bị tước quyền con người ngay tức khắc. Theo đó, tù chung thân được quy định như sau:

Điều 39. Tù chung thân

Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình.

Không áp dụng hình phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

g) Tử hình.

Tử hình được coi là hình phạt nghiêm khắc nhất trong các hình phạt được quy định trong bộ luật hình sự. Theo hình phạt tử hình sẽ được quy định như sau:

Điều 40. Tử hình

1. Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.

2. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.

3. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;

b) Người đủ 75 tuổi trở lên;

c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

4. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.

3. Các trường hợp hoãn chấp hành hình phạt tù

– Cơ sở pháp lý: Điều 67 Bộ Luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy địn như sau:

Điều 67. Hoãn chấp hành hình phạt tù

1. Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:

a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;

b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.

2. Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

Theo đó, hoãn chấp hành hình phạt tù trong các trường hợp sau:

a. Người chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục.

Đây là trường hợp người chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng. Tuy nhiên cần phải có căn cứ rằng người đó bị bệnh nặng mà ảnh hưởng đến tính mạng của họ. Nếu không hoãn chấp hành hình phạt tù người đó sẽ không thể tiếp tục và sức khỏe lâm vào tình trạng trầm trọng.

Nếu rơi vào trường hợp như vậy người chấp hành hình phạt sẽ được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục.

b. Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi

Khi phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì cũng được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi theo quy định của pháp luật. Quy định như vậy nhằm đảm bảo cho đứa bé cũng như người mẹ có một sức khỏe tốt nhất, đứa con được chăm sóc với điều kiện tốt nhất.

c. Là người lao động duy nhất trong gia đình

Nếu người phải chấp hành hình phạt tù là người lao động duy nhất trong gia đình, mà trong gia đình nếu người đó chịu hình phạt tù dẫn đến gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt. Có thể hiểu, gia đình đó sẽ không duy trì được.

Ví dụ: Chồng phạm tội và chịu hình phạt tù nhưng vợ thì bị tàn tật và đang có bầu hoặc đang có con nhỏ không còn cha mẹ nội ngoại, người thân chăm sóc.

Nếu vậy, người bị chịu hình phạt tù được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì sẽ không được hoãn chấp hành hình phạt tù theo quy định.

d. Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 bộ luật này quy định: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.

Tuy nhiên phải là tội do nhu cầu công vụ. Có thể hiểu hoạt động công vụ là hoạt động được tiến hành trên cơ sở pháp luật nhằm thực hiên các chức năng của Nhà nước vì lợi ích xã hội, lợi ích nhà nước, lợi ích chính đáng của các tổ chức và cá nhân. Hoạt động công vụ là hoạt động có tính tổ chức cao, được tiến hành thường xuyên, liên tục theo trật tự do pháp luật quy định trên cơ sở sử dụng quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Hoạt động công vụ chủ yếu do đội ngũ công chức chuyên nghiệp thực hiện.

Vậy khi người bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.

– Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

4. Quy định của pháp luật về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù

– Cơ sở pháp lý: Điều 68 Bộ luật hình sự

Điều 68. Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù

1. Người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 của Bộ luật này, thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.

2. Thời gian tạm đình chỉ không được tính vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Có thể hiểu tạm đình chỉ là quyết định tạm dừng mọi hoạt đông tố tụng của các cơ quan tố tụng của vụ án đối với bi can, bi cáo trong quá trình tố tụng. Vụ án nếu đã có quyết định tạm đình đình chỉ thì có thể được phục hồi điều tra, truy tố, xét xử khi lý do tạm đình chỉ không còn.

Vậy khi một người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 quy định về hoãn chấp hành hình phạt tù sau thì ó thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.

Điều 67. Hoãn chấp hành hình phạt tù

1. Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:

a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;

b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.

2. Trong thời gian được hoãn chấp hành hình phạt tù, nếu người được hoãn chấp hành hình phạt lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.

Theo khoản 2 Điều luật này, thời gian tạm đình chỉ không được tính vào thời gian chấp hành hình phạt tù. Khi người phạm tội đã chấp hành xong hình phtj thì người đó vẫn sẽ thực hiện chấp hành hình phạt bình thường.

 

5. Tình huống thức tế về hoãn chấp hành hình phạt tù

Khách hàng: Kính thưa Luật sư, tôi bị tuyên về hình phạt tù vô ý gây thương tích cho B với hình phạt là 2 năm tù. Tuy nhiên hiện tại tôi mang mang thai (được 4 tuần) thì tôi có được miễn trách nhiệm hình sự không?

Xin cảm ơn!

Trả lời:

Thứ nhất, một người được miễn hình phạt khi thuộc các trường hợp sau:

“Điều 62. Miễn chấp hành hình phạt

1. Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá.

2. Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Sau khi bị kết án đã lập công;

b) Mắc bệnh hiểm nghèo;

c) Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

3. Người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nêu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt.”

Vậy bạn đang mang thai 4 tuần nhưng bạn không thuộc trường hợp được miễn trách hình phạt.

Khi bạn đang mang thai, bạn sẽ được hoãn chấp hành hình phạt tù theo điểm b khoản 1 Điều 67 Bộ luật hình sự, cụ thể điều 67 quy định như sau:

Điều 67. Hoãn chấp hành hình phạt tù

1. Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:

a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;

b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;

c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;

d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.

Vậy bạn sẽ được hoãn chấp hành hình phạt đến khi con bạn đủ 36 tháng tuổi.

Trân trọng!