Luật sư tư vấn:

Các quy định về chế tài do vi phạm hợp đồng cho vay được sửa đổi theo Thông tư số 39/2016/TT-NHNN có những bước tiến bộ đáng kể. Quy định về bồi thường thiệt hại, thỏa thuận về chế tài phạt vi phạm hợp đồng vay được xem là điểm mới, kèm theo đó là những bất hợp lý. Việc đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định này sẽ không tránh khỏi những ý kiến trấi chiều. Song theo tác giả, các bên hợp đồng vẫn có những hạn chế riêng, nên các biện pháp này có ý nghĩa, giá trị nhất định, cần thiết, không xâm hại đến nguyên tắc tự do thỏa thuận hợp đồng.

 

1. Mở rộng điều kiện cho phép chấm dứt cho vay thu hồi vốn trước hạn

Biện pháp chế tài chấm dứt cho vay, thu hồi vốn trước hạn được pháp luật đặt ra khi bên vay vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực và vi phạm các cam kết trong hợp đồng cho vay. Các cam kết này cần hiểu theo nghĩa rộng, không đơn thuần chỉ giới hạn ở vi phạm cam kết về tài liệu, chứng từ liên quan đến việc vay vốn; sử dụng vốn vay không đúng mục đích; không chấp hành quy định về kiểm tra, giám sát, sử dụng vốn vay của các tổ chức tín dụng… mà bao hàm những hành vi vi phạm hợp đồng nói chung có nguy cơ gây mất an toàn vay. Đối với các khoản vay có giá trị hợp đồng lớn, thời hạn vay kéo dài, tổ chức tín dụng thường đặt ra điểu kiện thực hiện, giải ngân khắt khe, đi kèm theo đó là những dự phòng rủi ro.

Trên lý thuyết, các bên có thể thỏa thuận ghi vào hợp đồng cho vay hoặc trong các quy định nội bộ của tổ chức tín dụng nội dung này để ràng buộc chặt chẽ hơn trách nhiệm của bên vay về những cam kết của mình. Tuy vậy, không phải tổ chức tín dụng nào cũng ý thức vấn đề này để tự bảo vệ quyền lợi khi phát sinh những sự kiện như viện dẫn.

Như vậy, căn cứ pháp lý để áp dụng biện pháp chế tài thu hồi vốn vay trưóc hạn được luật định như hiện nay vẫn chưa đầy đủ, chưa thể hiện hết những rủi ro khách quan và chủ quan có thể xảy ra trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng vay. Từ những phân tích trên, các quy định điều chỉnh các giao dịch cho vay trong lĩnh vực ngân hàng cần bổ sung những căn cứ cho phép Tổ chức tín dụng được chấm dứt cho vay trước hạn như sau:

Một là, về nguyên tắc nếu dự án đầu tư, kinh doanh nhận tài trợ vốn không phát huy hiệu quả kinh tế trong quá trình triển khai, thực hiện (thông thường, các bên phải thỏa thuận lựa chọn cơ quan chuyên môn thực hiện và dựa trên kết quả thẩm tra, kiểm định) thì đương nhiên tổ chức tín dụng được phép chấm dứt cho vay.

Hai là, pháp luật quy định điều kiện cho vay khi bên vay có khả năng tài chính để trả nợ. Trong trường hợp giá trị tài sản bảo đảm, tài chính bên vay giảm sút so với thời điểm cho vay hoặc không có khả năng thu hồi vốn và lãi vay, tổ chức tín dụng được quyền yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm, yêu cầu thay đổi hạn mức cấp tín dụng. Khách hàng không chấp hành yêu cầu hợp lý này của tổ chức tín dụng, thì tổ chức tín dụng đó được quyền chấm dứt cho vay, thu hồi vốn vay.

Những kiến nghị này nếu được luật hóa sẽ hạn chế những rủi ro cho các tổ chức tín dụng, nhất là đối với tổ chức tín dụng có quy mô nhỏ, công tác pháp chế chưa tốt, năng lực soạn thảo, đánh giá hiệu quả hợp đồng vay còn hạn chế.  

 

2. Sửa đổi quy định thỏa thuận chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng cho vay

Các quy định hiện hành cho phép các bên thỏa thuận điều khoản hợp đồng: Bên vi phạm nghĩa vụ chỉ bị phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại (khoản 2 Diều 25 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN). Vận dụng cơ chế tự thỏa thuận trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong hợp đồng cho vay, sẽ dễ gây ra nhầm lẫn khi thực thi.

– Đối với quy định thỏa thuận phạt vi phạm

Pháp luật hiện hành có đề cập các biện pháp chế tài do vi phạm hợp đồng cho vay. Biện pháp phạt vi phạm đối với bên vay nếu không thể hiện rõ phạm vi, căn cứ phát sinh chế tài sẽ tạo trùng lắp khi áp dụng vì những lý do như đã được viện dẫn. Trong khi đó, áp dụng cơ chế tự thỏa thuận để phạt bên cho vay (không ấn định giới hạn mức phạt cụ thể) do vi phạm nghĩa vụ giải ngân lại không phù hợp. Vì về cơ sở lý luận, tiền vay thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng, các bên không thể tự do thỏa thuận áp dụng một mức phạt dựa trên khoản tiền vay nếu không được giải ngân, hoặc áp dụng mức phạt đối với khoản tiền vay bị tổ chức tín dụng thu hồi không có căn cứ pháp lý. Đồng thời, quy định này nếu được thực thi sẽ không tránh khỏi tình trạng tổ chức tín dụng do áp lực kinh doanh, tự thỏa thuận các chế tài vi phạm hợp đồng vay không phù hợp với thực tế tình hình tài chính và khả năng của tổ chức tín dụng, dễ gây rủi ro, mất an toàn vay.

Vì vậy, pháp luật ngân hàng cần quy định nguyên tắc, thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng vay đối với bên vay không được trái với quy định của pháp luật. Đối với các tổ chức tín dụng, về thỏa thuận phạt vi phạm đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ giải ngân, thu hồi tiền vay không có căn cứ, các thỏa thuận này không được vượt quá mức phạt tương ứng đối với lãi suất cho vay mà tổ chức tín dụng được hưởng lợi là phù hợp.

– Đối với quy định thỏa thuận bồi thường thiệt hại

Khác với yêu cầu bồi thường trong giai đoạn tiền hợp đồng, bồi thường do chậm hoặc không giải ngân theo tiến độ của hợp đồng cho vay được tổ chức tín dụng cam kết thực hiện có hậu quả (thiệt hại vật chất) thường lớn hơn rất nhiều (đó có thể là những thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp do chậm thực hiện tiến độ đầu tư, kinh doanh đã được ấn định), nếu bên vay bỏ mặc thiệt hại xảy ra. Dựa theo cơ chế tự thỏa thuận bồi thường sẽ không phù hợp, vì tổ chức tín dụng chủ động giảm thiểu thấp nhất mức bồi thường thiệt hại. Hoặc ngược lại, bên vay lợi dụng việc áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại để hưởng lợi.

Tóm lại, pháp luật về hợp đồng cho vay cần hoàn thiện khung pháp lý về chế tài do vi phạm hợp đồng cho vay phù hợp hơn, khắc phục những hạn chế của các quy định hiện hành, theo các kiến nghị sau:

Một là, bổ sung, sửa đổi quy định về nguyên tắc áp dụng thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng cho vay đối với bên vay không được trùng lặp, gây thiệt hại cho bên vay. Đối với bên cho vay, mức phạt vi phạm do chậm giải ngân, thu hồi vốn vay trước hạn phải dựa theo tỷ lệ lãi suất bên cho vay được hưởng đối với khoản tiền vay có vi phạm.

Hai là, bổ sung quy định về chế tài bồi thường thiệt hại áp dụng đối với bên cho vay, bảo đảm khắc phục thiệt hại cho khách hàng do lỗi bên cho vay gây ra, thay vì để các bên tự thỏa thuận như hiện nay là không phù hợp.

Quy định này nếu được bổ sung sẽ khắc phục đáng kể tình trạng các tổ chức tín dụng “lách luật” đưa vào hợp đồng cho vay những quy định gây bất lợi cho bên vay, làm vô hiệu hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay, đồng thời tác động tích cực đến sự an toàn của các tổ chức tín dụng, hạn chế những rủi ro có thể xảy ra.

Như vậy, các quan hệ cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng ngày càng phức tạp khi kinh tế hội nhập sâu rộng, nhiểu biến động. Trong lĩnh vực túi dụng ngân hàng vẫn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục khắc phục, hoàn thiện theo định hướng: khơi thông nguồn vốn lành mạnh cho nền kinh tế; đóng góp những giá trị tích cực vào công cuộc cải cách ngân hàng theo Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; thực hiện hiệu quả công tác xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội.

Qua công tác nghiên cứu tổng thể, tác giả đã bám sát những luận điểm trong khoa học pháp lý, đánh giá cơ bản thực trạng pháp luật về hợp đồng cho vay. Từ đó, đưa ra các kiến nghị có giá trị cho công tác nghiên cứu lý luận và hoàn thiện pháp luật như sau:

1. Phân tích, đánh giá năng lực chủ thể, thẩm quyền của người đại diện, những vướng mắc thường xảy ra trong thực tiễn xét xử, từ đó nêu lên giải pháp minh bạch thông tin doanh nghiệp, thiết lập bộ quy tắc nhận diện tư cách chủ thể hợp pháp; đưa ra kiến nghị nâng cao sự đồng thuận của các chủ thể cho vay trong quan hệ hợp đồng cho vay hợp vốn, củng cố quan hệ hợp đồng; so sánh, đối chiếu pháp luật nước ngoài, làm rõ những ưu điểm của pháp luật Việt Nam về quy định giới hạn cho vay để bảo đảm khách quan, phân tán rủi ro khi cho vay; phân định giới hạn của quyền tiếp cận tín dụng, cần tiếp tục có những nghiên cứu chuyên sâu hơn.

2. Trong quan hệ pháp lý giữa hợp đồng cho vay với hợp đồng bảo đảm, tác giả đã nêu những điểm mới của pháp luật theo Bộ luật Dân sự năm 2015, những bất cập được chứng minh qua thực tiễn tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng bảo đảm. Chỉ ra nguyên nhân là do tính đa dạng, phức tạp của các hình thức tài sản và sở hữu tài sản bảo đảm; điều kiện, phạm vi giới hạn được phép bảo đảm giao dịch; nhu cầu thay đổi tín dụng liên tục;… quan hệ pháp lý giữa hai dạng hợp đồng này trên thực tế đã thể hiện sự rời rạc, thiếu chặt chẽ. Từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục tính phức tạp trong quan hệ pháp lý giữa hai hợp đồng.

3. Làm rõ cơ chế ràng buộc trách nhiệm của các bên từ khi xét duyệt cho vay, nhu cầu cần có luật điều chỉnh quan hệ này để duy trì trật tự kinh doanh, kiến nghị xác lập quan hệ pháp lý giai đoạn tiền hợp đồng, bảo vệ lợi ích các bên, nâng cao uy tín và cạnh tranh giữa các ngân hàng. Các nghĩa vụ chủ yếu của hợp đồng cũng được đặt ra, trả lời những lý do xác đáng về nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay, chi phối trong toàn bộ quá trình hợp đồng. Đây cũng là lý do làm vô hiệu hóa thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp về yêu cầu hoàn trả tiền vay và lãi suất tại Tòa án, trọng tài hiện nay vốn dĩ vẫn còn nhiều quan điểm khác biệt.

4.    Tác giả cũng làm sáng tỏ các quy định về nghĩa vụ hợp đồng vay. Trong đó, đã thể hiện ưu điểm, hạn chế như sau: quy định chế tài vi phạm đối với tổ chức tín dụng do cung cấp thông tin không kịp thời, chính xác còn bỏ ngỏ, các tổ chức tín dụng lợi dụng tư cách của bên thế mạnh loại bỏ nghĩa vụ này trong hợp đồng; chế tài do vi phạm mục đích sử dụng vốn vẫn chưa làm rõ số tiền lãi hoàn trả trong hạn hoặc quá hạn; ưu điểm của lãi suất thỏa thuận dựa trên chủ trương tự do hóa lãi suất, nhưng còn thiếu minh bạch khi thực thi; công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá mức độ tín nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật của bên vay, tuy đã được pháp luật đề cập song thực tiễn, các tổ chức tín dụng vẫn chưa bám sát vận dụng vào quy trình vay nên hiệu quả chưa cao, đồng thời kiến nghị về một quy trình cho vay an toàn, hiệu quả, chú trọng quan tâm ý nghĩa của công tác giám sát nội bộ, vai trò của thành viên tổ chức tín dụng trong suốt quá trình ký kết thực hiện hợp đồng cho vay.

5.    Về các biện pháp chế tài vi phạm hợp đồng cho vay, cần: luật hóa quy định tổ chức tín dụng không giải ngân mà không có lý do chính đáng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài chính bên vay phải bồi thường thiệt hại; chế tài chấm dứt cho vay chỉ dừng lại ở công tác thu hồi vốn vay, chưa có biện pháp bù đắp thiệt hại cho bên vay; chế tài bằng lãi suất phạt nợ quá hạn phù hợp với quan hệ hợp đồng có đối tượng vốn tiền tệ, nhưng việc ấn định lãi suất lên đến 150% mà chưa làm rõ phạm vi, đối tượng được hưởng mức lãi suất phạt thấp hơn là chưa phù hợp; nhận diện tình trạng tổ chức tín dụng, Tòa án áp dụng sai các biện pháp chế tài vi phạm hợp đồng cho vay, tình trạng “lãi chồng lãi” phổ biến gây thiệt hại, làm mất niềm tin của khách hàng,… kèm theo đó là các giải pháp cụ thể, thiết thực để khắc phục.

6.   Những ưu khuyết điểm trong việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, công tác thu hồi nợ, xuất phát từ định hướng an toàn vay làm hạn chế quyền lợi của các bên, tác giả kiến nghị giảm bớt can thiệp của Nhà nước, ban hành các quy định dung hòa lợi ích giữa các bên hợp đồng với lợi ích nhà nước; Làm rõ những đỉểm tích cực của cơ chế xử lý nợ chủ động theo Nghị quyết số 42/2017/QH14, Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ đã cho phép áp dụng thủ tục rút gọn phát mãi tài sản bảo đảm thấp hơn dư nợ, bán cho mọi đối tượng đang nhận được hưởng ứng của tổ chức tín dụng, tác động tích cực trên thị trường tài chính. Từ kinh nghiệm thực tiễn, tác giả đã phác thảo những rào cản cần tiếp tục nghiên cứu khắc phục, bổ sung để xóa bỏ, bảo đảm quyền chủ động hơn cho các tổ chức tín dụng trong công tác xử lý nợ.

7.   Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi người vay tiêu dùng tạo nhiều đột phá nhưng còn nhiều hạn chế; tác giả đã tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm của nước ngoài, kiến nghị xác định trách nhiệm của tổ chức tín dụng tham gia cho vay tiêu dùng đối vổĩ sản phẩm tiêu dùng có tài trợ vốn nếu không đáp ứng yêu cầu chất lượng, nâng cao hơn nữa quyền lợi bên vay tiêu dùng, thay vì chỉ dừng lại yếu tố minh bạch cho vay theo các quy định của pháp luật mối được sửa đổi; tác giả cũng làm rõ trách nhiệm của bên cho vay trong việc đánh giá năng lực khách hàng như một sự chia sẻ những rủi ro, bảo vệ tối ưu quyền lợi của người vay tiêu dùng trước bên thế mạnh (ngân hàng), kiến nghị khống chế mức lãi suất quá hạn, thời hạn tính lãi hợp lý, tạo điều kiện cho bên vay trách nhiệm trả nợ trong khả năng tài chính.

Mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, hoạt động vay vốn, giải ngân vốn… Quý khác hàng vui lòng gọi: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật ngân hàng, tài chính trực tuyến qua tổng đài điện thoại. Đội ngũ Luật sư của LVN Group của Công ty luật LVN Group luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi vướng mắc pháp lý trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.