1. Nguồn của luật điều ước quốc tế

Các quy phạm của luật điều ước quốc tế được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và các tập quán quốc tế. Các quy phạm tập quán về luật điều ước quốc tế được hình thành chủ yếu từ chính thực tiễn đàm phán, ký kết và thực hiện điổu ước quốc tế của các quốc gia. Hiện nay, những tập quán quốc tế liên quan đến thủ tục, nghi lễ ký kết điểu ước quốc tế vẫn được các chủ thể kết ước áp dụng trong quá trình thiết lập các quan hệ điều ước quốc tố với nhau.

Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia và Công ước Viên năm 1986 về luật điều ước quốc tế giữa cấc quốc gia và các tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế được coi là nguồn pháp luật thành ván chủ yếu của luật điều ước quốc tế hiện hành. Công ước Viên năm 1969 là kết quả của quá trình phát triển và pháp điển hoá các quy phạm luật điều ước quốc tế. Trong Công ước có lời nói đầu, 85 điều khoản và 1 phụ lục, nội dung Công ước quy định những vấn để cơ bản của luật điều ước quốc tế, như hành vi, trình tự, thủ tục ký kết điều ước quốc tế, hiệu lực của điều ước quốc tế. Tuy nhiên, Công ước chỉ điều chỉnh việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế thành văn giữa cấc quốc gia. Riêng các điều ước quốc tế bất thành văn (hiệp định quân tử) và các điểu ước quốc tế mà một trong các bên ký kết không phải là quốc gia sẽ chịu sự diều chỉnh của các quy phạm tập quán và các vãn bản pháp lý quốc tế khác.

2. Nguyên tắc tự nguyện, bỉnh đẳng trong quá trình ký kết điểu ước quốc tế

Ký kết điểu ước quốc tế là loại hình hoạt động pháp lý thuộc quá trình xây dựng luật quốc tế. Do đặc điểm cơ bân của luật quốc tế là không có các cơ quan lập pháp chuyên trách nên quá trình xây dựng luật quốc tế luôn được tiến hành bởi chính các chủ thể luật quốc tế. Đạc điểm này tác động đến quá trình ký kết điểu ước quốc tế theo hướng việc ký kết điều ước sẽ hoàn toàn dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện của các thành viên. Sự tự nguyên và bình đẳng trong các quan hệ điều ước trở thành một trong những căn cứ để đánh giá tính hợp pháp của điều ước quốc tế.

Theo nguyên tảc này, những điều ước được ký kết mà có sự lừa dối, có sử dụng vũ lực hoặc ép buộc sẽ không có giá trị pháp lý (Điều 49, 52 Công ước Viên năm 1969 về iuật điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia). Nguyên tắc này góp phần bảo vệ quyển và lợi ích hợp pháp của chủ thể ký kết trong các quan hệ pháp luật quốc tế, tránh sự áp đặt từ bên ngoài với mục đích thôn tính hay tạo ra tình trạng phãi lệ thuộc về kinh tế, chính trị vào quốc gia khác. Nguyên tắc này đổng thời lạo cơ sở để duy trì tương quan có lợi cho hoà bình, an ninh và ổn định ở từng khu vực cũng như trên phạm vi toàn cầu, hạn chế sự lạm quyền và tình trạng không bình đẳng trong quá trình vừa hợp tác, vừa cạnh tranh của các chủ thể luật quốc tế. Nguyên tắc này còn trỏ thành một trong những điều kiện pháp lý để điều ước quốc tế đã ký kết có hiệu lực trong thực tiễn. 

3. Hoạt động ký kết, thực hiện điều ước quốc tế của Nhật Bản

Nhật Bản quy định ĐƯQT là các văn bản pháp lý quốc tế mà Nhật Bản tham gia hoặc ký kết với các nước, các tổ chức quốc tế, bao gồm Công ước, Hiệp định, Nghị định thư… Theo quy định của khoản 2 Điều 98 Hiến pháp Nhật Bản năm 1946,  ĐƯQT được coi như Luật quốc gia và được thực hiện một cách đầy đủ.

Tuy nhiên, pháp luật Nhật Bản không có quy định về trật tự, thứ bậc giữa pháp luật quốc gia và ĐƯQT, cái nào có giá trị pháp lý cao hơn cái nào hoặc ĐƯQT có phải là một bộ phận của luật quốc gia hay không. Tuy không có quy định, nhưng hầu hết các chuyên gia pháp luật của Nhật Bản đều cho rằng, ĐƯQT có giá trị pháp lý thấp hơn Hiến pháp, bởi lẽ ĐƯQT đa phần là do Chính phủ ký kết, còn Nghị viện thông qua các văn bản này. Đồng thời, nếu ĐƯQT có giá trị pháp lý cao hơn Hiến pháp, thì khi có sự mẫu thuẫn giữa Hiến pháp và ĐƯQT phải tiến hành sửa Hiến pháp. Điều này có vẻ không phù hợp đối với một quốc gia như Nhật Bản.

Pháp luật Nhật Bản cũng không quy định hay khẳng định thành nguyên tắc chung ĐƯQT có vị trí như thế nào đối với luật trong hệ thống pháp luật, mà chỉ có một số văn bản pháp luật riêng lẻ của Nhật Bản đề cập đến thứ tự ưu tiên của ĐƯQT khi có mâu thuẫn về nội dung của ĐƯQT với văn bản pháp luật có liên quan, chẳng hạn như Luật Bản quyền của Nhật Bản,…. Còn lại, đa số các văn bản pháp luật hiện hành của Nhật Bản không đề cập đến quyền ưu tiên của ĐƯQT. Nhưng căn cứ vào các quy định riêng rẽ của một số văn bản pháp luật thì có thể thấy rằng, ở Nhật Bản ĐƯQT có giá trị pháp lý cao hơn luật.

Như vậy, mặc dù các quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật của Nhật Bản không nói rõ trực tiếp về thứ bậc của ĐƯQT trong hệ thống pháp luật quốc gia, nhưng căn cứ vào các quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật của Nhật Bản, chúng ta thấy rằng, ở Nhật Bản, ĐƯQT có giá trị pháp lý dưới Hiến pháp, nhưng cao hơn luật. Mặt khác, các quy định của Nhật Bản xác định rằng, Nhật Bản coi ĐƯQT là một bộ phận tách rời khỏi hệ thống pháp luật quốc gia, tức là theo trường phái “nhị nguyên luận” và không có sự áp dụng trực tiếp các ĐƯQT. Bởi lẽ nếu một quốc gia coi ĐƯQT là một bộ phận của luật quốc gia (nhất nguyên luận), thì ĐƯQT sẽ là một bộ phận gắn liền với pháp luật trong nước nên không cần đặt ra vấn đề vị trí cao thấp của ĐƯQT trong luật quốc gia. Khi nghiên cứu, xem xét việc thực hiện ĐƯQT của Nhật Bản, ta thấy nhiều văn bản pháp luật của Nhật Bản chỉ dẫn đến việc áp dụng trực tiếp các ĐƯQT, ví dụ, Điều 3 của Luật Thuế quan quy định: “Trong trường hợp có quy định cụ thể của ĐƯQT, thì áp dụng ĐƯQT”.

Như vậy, Nhật Bản cũng như nhiều nước hiện nay đều không cứng nhắc theo một chủ thuyết nào trong việc thực hiện các ĐƯQT, mà có sự uyển chuyển trong sự tiếp thu của hai học thuyết: nhị nguyên luận và nhất nguyên luận. Các quốc gia thường quan tâm đến hiệu quả của việc thực hiện các ĐƯQT, khi ĐƯQT rõ ràng, có thể áp dụng trực tiếp được thì họ sẽ áp dụng trực tiếp; còn nếu chưa rõ ràng, khó áp dụng, thì các quốc gia sẽ tiến hành việc chuyển hoá thành các quy định của pháp luật trong nước.

4. Cách thức chuyển hoá các ĐƯQT vào pháp luật quốc gia

Theo quy định của khoản 3 Điều 73 Hiến pháp Nhật Bản, Chính phủ có quyền ký kết các ĐƯQT khi có sự chấp thuận trước hoặc đồng thời của Nghị viện, và sau khi ký kết, Chính phủ phải trình ĐƯQT ra cả hai viện là Thượng nghị viện và Hạ nghị viện để phê chuẩn. Trong trường hợp Chính phủ trình phê chuẩn ĐƯQT nhưng không đạt được sự đồng thuận của cả Hạ nghị viện và Thượng nghị viện, thì ý kiến của Hạ nghị viện sẽ là ý kiến quyết định. Trên thực tế, trường hợp này cũng hiếm khi xảy ra và pháp luật Nhật Bản cũng không có quy định liên quan đến việc xử lý trong trường hợp này. 

 Pháp luật Nhật Bản không có quy định cụ thể về các tiêu chí khi xem xét một ĐƯQT đã ký kết hoặc gia nhập có cần nội luật hoá hay không và cũng không quy định cơ quan nào có thẩm quyền xác định vấn đề này. Nhưng khi tổng kết quá trình hoạt động thực tiễn, Toà án Tối cao của Nhật Bản đã đưa ra hai tiêu chí xác định ĐƯQT không phải nội luật hoá, đó là: (i) ngay khi ký kết, gia nhập các bên thỏa thuận rằng các nội dung của điều ước sẽ được áp dụng trực tiếp; (ii) các quy định trong ĐƯQT đã rõ ràng, chính xác và tiện áp dụng.

Việc xác định một điều ước có được áp dụng trực tiếp hay không sẽ có ý nghĩa thực tiễn trong xét xử hoặc giải quyết các vụ việc cụ thể. Bởi lẽ, khi xác định một điều ước có hiệu lực áp dụng trực tiếp, không phải thông qua thủ tục nội luật hoá, thì một cá nhân có quyền căn cứ vào ĐƯQT đó để kiện Chính phủ, nếu cá nhân này cho rằng Chính phủ đã vi phạm nghĩa vụ theo quy định của ĐƯQT đó. Ngược lại, nếu một ĐƯQT phải thông qua thủ tục nội luật hoá vào pháp luật trong nước, thì cá nhân không có quyền căn cứ vào các quy định của ĐƯQT này để kiện Chính phủ.

Toà án Nhật Bản, trong nhiều vụ việc xét xử đã từ chối hiệu lực áp dụng trực tiếp của điều ước liên quan, ví dụ, trong năm 1994, một Toà án quận của Tokyo đã từ chối hiệu lực trực tiếp của Hiệp định GATT. Hay năm 1995, khi Nhật Bản đã phê chuẩn Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử (Công ước này không được nội luật hoá), nhưng một số nhà tắm công cộng vẫn giữ quy định cũ là chỉ cho người Nhật Bản vào tắm chứ không cho người nước ngoài được sử dụng dịch vụ này. Vụ việc này đã được khởi kiện tại toà án. Khi xem xét vụ việc, thì toà án đã tuyên là Công ước trên không được áp dụng trực tiếp, nên các cá nhân không được căn cứ vào Công ước này để khởi kiện tại toà.

Đối với các quy định của pháp luật trong nước, nếu có điều khoản trái với ĐƯQT mà Nhật Bản ký kết hoặc gia nhập, thì Nhật Bản thực hiện việc sửa đổi hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật liên quan. Chẳng hạn, khi là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, Nhật Bản đã ban hành mới và sửa đổi một loạt các văn bản pháp luật trong nước để thực hiện nghĩa vụ thành viên của mình: liên quan đến thực hiện việc chống bán phá giá, Nhật Bản ban hành Luật Thuế quan; liên quan đến các biện pháp tự vệ, Nhật Bản ban hành Luật về Kiểm soát ngoại thương và ngoại hối; liên quan đến sở hữu trí tuệ, Nhật Bản ban hành Luật về Bản quyền, Luật về Cạnh tranh lành mạnh… Ngoài các văn bản nói trên, Nhật Bản cũng ban hành và sửa đổi rất nhiều văn bản khác nữa để phù hợp với các quy định trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới.

Nhật Bản không dùng phương pháp “dùng một luật để sửa nhiều luật” hiện hành khi thực hiện các nghĩa vụ cam kết trong các ĐƯQT đã ký kết hoặc gia nhập như một số quốc gia khác, mà lựa chọn cách thức sửa đổi hoặc ban hành mới từng luật cụ thể để thực hiện các nghĩa vụ này. Vấn đề khó khăn là trong nhiều trường hợp, sẽ chỉ có một khoảng thời gian rất ngắn để Nhật Bản sửa đổi, ban hành một khối lượng lớn các văn bản pháp luật trong nước liên quan đến thực hiện các cam kết quốc tế (như khi là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới). Tuy nhiên, khi nghiên cứu quy trình xây dựng luật và hệ thống cơ cấu Nghị viện – cơ quan làm luật ở Nhật Bản – chúng ta thấy rằng việc áp dụng cách thức trên của Nhật Bản là có cơ sở hiện thực. Nghị viện Nhật Bản hầu như làm việc tất cả các ngày trong năm. Từ năm 1998 đến nay, trong một kỳ họp, Nghị viện Nhật Bản thông qua khoảng 60 Luật mới. Ngoài ra, Nghị viện Nhật Bản còn thông qua một số lượng lớn các luật sửa đổi, bổ sung khác.

5. Giải thích các ĐƯQT  

Pháp luật Nhật Bản không có quy định rõ ràng về cơ quan giải thích ĐƯQT. Khi có vụ việc tranh chấp xảy ra liên quan đến nội dung một ĐƯQT cụ thể, các cơ quan hành chính và toà án sẽ xem xét giải thích áp dụng ĐƯQT đó. Như vậy, cơ quan giải thích ĐƯQT ở Nhật Bản là các cơ quan trực tiếp áp dụng pháp luật liên quan.

Tuy nhiên, các quyết định giải quyết tranh chấp của cơ quan hành chính cũng có thể bị xem xét lại bằng thủ tục tư pháp (toà án) nếu có yêu cầu của người khiếu kiện. Khi xem xét các quyết định giải quyết khiếu kiện của cơ quan hành chính, toà án xem xét cả về việc áp dụng pháp luật, áp dụng ĐƯQT của các cơ quan hành chính. Do đó, xét đến cùng, cơ quan có quyền giải thích ĐƯQT ở Nhật Bản chính là toà án.  

Bài viết tham khảo: Pháp luật về ký kết, thực hiện điều ước quốc tế ở một số nước và những nội dung cần tham khảo; PGS.TS. HOÀNG VĂN TÚ (Viện Nghiên cứu Lập pháp); PGS,TS. TRƯƠNG HỒ HẢI (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) – Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp