1. Tham nhũng là gì?

Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức.

Các hành vi tham nhũng cụ thể sau: tham ô, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn dùng tài sản đưa hối lộ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân, lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ; lạm quyền trong khi thi hành công vụ để vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đến người khác để vụ lợi; giả mạo trong công tác để vụ lợi.

2. Tội tham nhũng quy định trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 2015

Tham nhũng bao gồm hai hành vi tiêu biểu nhất đó là: tham ô và nhận hối lộ.

2.1. Yếu tố cấu thành tội tham ô

“Điều 353. Tội tham ô tài sản

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

c) Phạm tội 02 lần trở lên;

d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

đ) Chiếm đoạt tiền, tài sản dùng vào mục đích xóa đói, giảm nghèo; tiền, phụ cấp, trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với cách mạng; các loại quỹ dự phòng hoặc các loại tiền, tài sản trợ cấp, quyên góp cho những vùng bị thiên tai, dịch bệnh hoặc các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn;

e) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng;

g) Ảnh hưởng xấu đến đời sống của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan, tổ chức.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Dẫn đến doanh nghiệp hoặc tổ chức khác bị phá sản hoặc ngừng hoạt động.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.

5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

6. Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.”

– Về mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích của hành vi này là nhằm vụ lợi.

– Về mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà người phạm tội quản lý. Hành vi chiếm đoạt tài sản đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của người phạm tội, nếu người phạm tội không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó hoặc không thể thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản. Chức vụ quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội chiếm đoạt tài sản dễ dàng.

Người phạm tội phải thuộc 1 trong các trường hợp sau mới bị kết tội tham ô tài sản:

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên

+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội phạm tham nhũng, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

– Về mặt chủ thể: Đây là chủ thể đặc biệt: Là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức nhà nước và doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài. Chủ thể phải từ đủ 16 tuổi trở lên, không trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự.

– Về khách thể: Tội phạm xâm phạm đến những quan hệ xã hội liên quan đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức trong nhà nước và của cả các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.

2.2. Yếu tố cấu thành tội nhận hối lộ

“Điều 354. Tội nhận hối lộ

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Lợi ích phi vật chất.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 1.000.000.000 đến dưới 3.000.000.000 đồng;

đ) Phạm tội 02 lần trở lên;

e) Biết rõ của hối lộ là tài sản của Nhà nước;

g) Đòi hối lộ, sách nhiễu hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

b) Gây thiệt hại về tài sản từ 3.000.000.000 đồng đến dưới 5.000.000.000 đồng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Của hối lộ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thiệt hại về tài sản 5.000.000.000 đồng trở lên.

5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

6. Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại Điều này.”

– Về mặt khách quan: Tội nhận hối lộ có các dấu hiệu sau đây:

+ Có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Được hiểu là sử dụng chức vụ, quyền hạn như một phương tiện để thực hiện tội phạm.

+ Có hành vi đã nhận hoặc sẽ nhận (nghĩa là tuy nhận nhưng có việc hứa hẹn, thỏa thuận trước việc nhận), tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất, phi vật chất khác dưới bất kì hình thức nào (như tiền, vàng, xe gắn máy, quà biếu…).

+ Việc nhận tiền, tài sản… có thể được thực hiện trực tiếp giữa người nhận hối lộ và người đưa hối lộ nhưng cũng có thể qua trung gian (như qua người môi giới, qua bưu điện…). Việc nhận tiền, tài sản hoặc các lợi ích đó có thể là cho chính người đó nhưng cũng có thể cho người khác hoặc tổ chức khác.

* Lưu ý: Các hành vi nêu trên phải gắn liền với nhau và với điều kiện là:

+ Để làm một việc (hành động) vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ (ví dụ: Cán bộ phòng quản lí đô thị nhận hối lộ rồi tiến hành cấp giấy phép xây dựng nhanh hơn…).

+ Hoặc để không làm một việc (không hành động) vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ (ví dụ: Cán bộ hải quan nhận hối lộ rồi bỏ qua không lập thủ tục xử phạt người vi phạm hành chính về hải quan…).

+ Đối với trường hợp người có chức vụ, quyền hạn chủ động đòi hối lộ, thì tội phạm được coi là hoàn thành tính từ thời điểm người phạm tội tỏ rõ thái độ đòi hối lộ và người đưa hối lộ chấp nhận sự đòi hỏi đó. Trường hợp một trong hai bên tỏ thái độ hoặc đưa ra đề nghị đưa hối lộ nhưng một trong hai bên không chấp nhận (từ chối) thì không cấu thành tội nhận hối lộ vì hai bên vẫn chưa có sự thỏa thuận xong về việc đưa và nhận hối lộ.

– Mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý và với động cơ vu lợi.

– Về chủ thể: của tội này có hai nhóm, cụ thể là:Chủ thể của tội nhận hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị của nhà nước. Là người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.

– Mặt khách thể: Hành vi phạm tội xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức khinh tế của nhà nước hoặc tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước.

3. Công tác phòng chống tham nhũng tại các nước Châu Á

3.1. Tại Singapo

Singapre đã tạo dựng được một nền văn hóa “phi tham nhũng,” mà ở đó công chức “không thể tham nhũng, không dám tham nhũng và không muốn tham nhũng”

Nếu sau khi nghỉ hưu, công chức nhà nước tiếp tục làm việc trong lĩnh vực có liên quan đến hoạt động công vụ của họ trong vòng 5 năm trước khi nghỉ việc, họ phải báo cáo rõ ràng và minh bạch về công việc đó với cơ quan trước khi rời nhiệm sở. Cơ quan quản lý cấp trên cấm các công chức sau khi nghỉ hưu làm việc trong các lĩnh vực có nguy cơ gây thiệt hại đối với lợi ích công vụ mà họ từng đảm nhiệm trước đó.

Trong khi đó, Singapore đã áp dụng những biện pháp mang tính thể chế để loại bỏ tham nhũng. Một trong những nỗ lực quan trọng nhất là thành lập Cơ quan điều tra tham nhũng (CPIB) với tư cách là cơ quan chống tham nhũng độc lập. Cho đến nay, CPIB vẫn duy trì tính độc lập với các cơ quan khác, có quyền độc lập điều tra và ngăn chặn các hành vi tham nhũng.

Ngoài ra, quyết tâm tiêu diệt tham nhũng của Singapore cũng mang dấu ấn của các nhà lãnh đạo chính trị, “những người đã tự đặt mình làm gương cho công chức, từ bỏ các mối quan hệ kinh tế, thể hiện đạo đức công vụ cao, tránh bất kỳ những hành vi nào có thể hiểu là lạm dụng chức vụ và không khoan nhượng đối với những hành vi tham nhũng,” từ đó, tạo ra bầu không khí trung thực và liêm chính.

Ngoài ra, một phần quan trọng trong chiến lược của Chính phủ Singapore là giải quyết nguyên nhân gốc rễ của tham nhũng: cải thiện liên tục tiền lương và điều kiện làm việc. Từ đó, Singapre đã tạo dựng được một nền văn hóa “phi tham nhũng,” mà ở đó công chức “không thể tham nhũng, không dám tham nhũng và không muốn tham nhũng.

3.2. Tại Trung Quốc

Trong khi đó, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát động chiến dịch chống tham nhũng rộng lớn và quyết liệt với tên gọi “đả hổ, diệt ruồi” và mang lại những kết quả rõ rệt. Nhiều “hổ lớn” đã bị đưa ra trước công lý như Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ủy ban Chính pháp Trung ương Chu Vĩnh Khang; hai Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Từ Tài Hậu và Quách Bá Hùng; Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Trùng Khánh Tôn Chính Tài…

Chính phủ Trung Quốc đã áp dụng một khung chiến lược chống tham nhũng chặt chẽ và toàn diện gồm cả khu vực công và tư, đồng thời từng bước hình thành các cơ chế chống tham nhũng hiệu quả dựa trên kinh nghiệm của nhiều quốc gia. Các nỗ lực chống tham nhũng được tiến hành một cách kiên quyết, đúng pháp luật và có trọng điểm.

Trung Quốc đã đề ra những biện pháp như giáo dục tư tưởng chính trị và tác phong liêm chính trong toàn Đảng; kiện toàn hệ thống pháp quy về xây dựng tác phong liêm chính trong các cấp ủy Đảng, chính quyền; xây dựng chế độ giám sát quyền lực.

Trung Quốc yêu cầu các quan chức nhà nước từ cấp phó ở huyện công khai các thông tin cá nhân, bao gồm kê khai tài sản

Nhà chức trách Trung Quốc còn đẩy mạnh chiến dịch chống tham nhũng bằng cách tăng cường bảo vệ và thưởng nhiều tiền hơn cho những người cung cấp thông tin và tố giác các vụ tham nhũng.

Ngoài ra, Bắc Kinh còn yêu cầu các quan chức nhà nước từ cấp phó ở huyện công khai các thông tin cá nhân, bao gồm kê khai tài sản. Những nội dung kê khai gồm tình trạng hôn nhân, các chuyến du lịch nước ngoài, hồ sơ hình sự, lương và các thu nhập khác, tài sản gia đình, cổ phiếu, quỹ, bảo hiểm và các khoản đầu tư.

Từ đầu năm 2017 đến nay, chiến dịch phòng chống tội phạm tham nhũng của Trung Quốc đã chuyển theo hướng mới. Thay vì chỉ chú ý đến những quan chức cấp cao, vốn được coi là đối tượng trong chiến dịch chống tham nhũng nhiều năm nay, Bắc Kinh bắt đầu tập trung vào những quan chức ở cấp cơ sở. Chính điều này đã khiến các quan chức cấp cơ sở cũng cần phải cẩn trọng.

4. Phòng chống tham nhũng tại các nước Châu Âu

4.1. Phòng chống tham nhũng tại Hà Lan

Việc Hà Lan nằm trong nhóm những quốc gia có mức độ tham nhũng thấp nhất thế giới là do nước này đã xây dựng và thực hiện hiệu quả hệ thống các biện pháp cảnh báo và phòng chống tham nhũng khá hoàn chỉnh.

Hà Lan đã tổ chức nghiên cứu xây dựng hệ thống quản lý những lĩnh vực có thể phát sinh hành vi tham nhũng và kiểm soát chặt chẽ hoạt động của những công chức làm việc trong các lĩnh vực đó; đồng thời tổ chức các cuộc tuyển chọn chặt chẽ và nghiêm khắc công chức vào những chức vụ có điều kiện dẫn đến hành vi tham nhũng.

Ngoài ra, quốc gia này cũng xây dựng hệ thống chuyên trách để giáo dục và tập huấn công chức nhằm giúp họ nhận thức rõ tác hại của các hành vi tham nhũng đối với lợi ích quốc gia; thực hiện chế độ thường xuyên báo cáo và công khai hóa các vụ việc trong quá trình phát hiện tham nhũng và trừng phạt các hành vi tham nhũng.

Các công chức nhà nước ở tất cả các cấp nhất thiết phải báo cáo các trường hợp tham nhũng mà họ biết được. Thông tin này sẽ được chuyển tới Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp theo các kênh liên lạc thích hợp. Các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình,… đóng vai trò rất lớn trong cuộc chiến chống tham nhũng, như phát hiện, phanh phui, điều tra và công bố hành vi tham nhũng.

4.2. Phòng chống tham nhũng tại Đức

Tại Đức, để phòng ngừa và hạn chế hành vi tham nhũng, chính phủ nước này quy định rất rõ ràng rằng công chức nhà nước hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hành động và hành vi của họ khi thực hiện các chức trách công vụ.

Theo quy định, một trong những yêu cầu quan trọng nhất trong chống tham nhũng là giữ gìn bí mật công vụ. Công chức khi hết thời hạn công tác trong cơ quan nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn những thông tin và số liệu mà họ được biết trong quá trình công tác.

Công chức nhà nước không được phép hoạt động kinh doanh tư nhân hoặc hoạt động kinh doanh thông qua những người được ủy quyền, cũng như người thân trong gia đình. Những quy định này được chính phủ ban hành kèm theo các nghị định có giá trị pháp lý.

5. Hoàn thiện các quy định về phòng chống tham nhũng tại Việt Nam

Thứ nhất: Nghiên cứu bổ sung quy định pháp nhân là chủ thể tham nhũng. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định pháp nhân là chủ thể của tham nhũng, nhưng trong thực tế có xảy ra. Để bảo đảm phòng chống tham nhũng (PCTN) được toàn diện và triệt để hơn, cần bổ sung một số hành vi tham nhũng của pháp nhân. Tuy nhiên, việc xử lý trách nhiệm đối với pháp nhân có hành vi tham nhũng là bằng biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính, như: phạt tiền, cấm kinh doanh, giải thể pháp nhân… Đối với việc xử lý hình sự chỉ áp dụng đối với cá nhân mà không thể xử lý đối với pháp nhân theo đúng nguyên tắc của Bộ luật Hình sự Việt Nam. Trong trường hợp pháp nhân có hành vi tham nhũng, có thể truy cứu trách nhiệm của những người thuộc pháp nhân đó có những hành vi vi phạm pháp luật thì có thể bị xử lý hình sự nếu có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.

-Trong sửa đổi Luật PCTN sắp tới, vấn đề tham nhũng phi vật chất, như vấn đề hối lộ tình dục, hối lộ thông tin dự án,…cần được kịp thời bổ sung vào một cụ thể hơn và cần phải quy định rõ hơn cả trong Luật PCTN và BLHS, đó là yếu tố vụ lợi là lợi ích vật chất và tinh thần, nếu có được sự nhất quán với nhau như thế sẽ tạo ra cơ chế xử lý thuận lợi hơn, chứ không phải như quy định trong BLHS hiện hành cứ “vụ lợi” phải là vật chất, tính ra tiền hết nên việc xử lý là khó khăn.

– Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể các dấu hiệu của tội phạm, hành vi tham nhũng để áp dụng pháp luật chính xác, vì hiện nay có những trường hợp xác định không chính xác tội phạm và hành vi tham nhũng.

– Sửa đổi, bổ sung quy định về chứng cứ quy định trong BLTTHS để có thể truy cứu trách nhiệm của những người nhận hối lộ bằng các chứng cứ gián tiếp (như trường hợp người có chức, có quyền không trực tiếp nhận tiền, tài sản mà người thân nhận tiền, tài sản; hoặc trường hợp đưa và nhận hối lộ rất tinh vi: người đưa hối lộ tặng một vật kỷ niệm có giá trị nhỏ, sau đó cho một người khác đến mua lại vật kỷ niệm đó với số tiền rất lớn…). Quy định nghĩa vụ giải trình của người bị điều tra, truy tố về tội tham nhũng nhằm giảm khó khăn cho cơ quan tố tụng trong việc chứng minh tội phạm.

– Quy định các biện pháp để kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán tài sản hoặc tạm giữ đối với tài sản nghi ngờ có liên quan đến tham nhũng và nghiên cứu xây dựng Luật Sung công tài sản theo kinh nghiệm của Singapore. Nhìn chung, đối tượng của loại tội phạm tham nhũng thường là tài sản, nếu quy định chặt chẽ, nghiêm minh về việc sung công quỹ tài sản tham nhũng hoặc có nguồn gốc từ tham nhũng không chỉ có tác dụng phòng ngừa (tác động vào ý thức) mà còn tạo cơ sở để xử lý tài sản tham nhũng. Mặt khác nó thể hiện việc xử lý kiên quyết người vi phạm, đồng thời coi trọng các biện pháp nhằm thu hồi tài sản. Cần thấy tham nhũng là một loại tội phạm kinh tế với mục đích vụ lợi nên phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết để thu hồi lại tài sản tham nhũng; quy định về việc xem xét toàn bộ tài sản của những người bị kết luận là có hành vi tham nhũng để tìm ra tài sản bất minh sung công quỹ.

Thứ hai, để chống tham nhũng có hiệu quả Nhà nước có cơ chế để kiểm soát tài sản, thu nhập toàn xã hội thông qua các công cụ quản lý, nhất là thuế. Tiến tới mọi khoản chi giá trị lớn, sự hình thành tài sản có giá trị của bất kỳ ai trong xã hội cũng phải được giải thích rõ nguồn gốc. Cần thiết phải xây dựng Luật Đăng ký tài sản, tạo thuận lợi, minh bạch để bất cứ tài sản nào có đăng ký cũng được tham gia thị trường một cách dễ dàng, an toàn. Mặt khác, qua đó Nhà nước kiểm soát được sự biến động, nguồn gốc tài sản, phòng ngừa tẩu tán tài sản, rửa tiền từ hoạt động tội phạm trong đó có tham nhũng, hỗ trợ cho việc thu hồi tài sản tham nhũng.

– Thực hiện minh bạch trong tài sản của các chủ thể: Vấn nạn hối mại quyền thế và thâm lạm công sản. Cả ở góc độ pháp lý và đạo đức, tài sản của mỗi người chỉ có thể được tích tụ theo một trong hai cách – hợp pháp và không hợp pháp hoặc chính đáng và không chính đáng. Quan chức cũng không thoát khỏi sự chi phối của quy tắc rành mạch này. Điều kiện cần cho việc bảo đảm minh bạch tài sản: Kê khai tài sản. Kê khai tài sản của một người có thể được định nghĩa là việc lập một bảng liệt kê tất cả những của cải thuộc quyền sở hữu của người đó và các khoản thu nhập thường xuyên cũng như không thường xuyên có khả năng tạo ra tích luỹ.

– Từng bước nội luật hoá các quy định về xử lý tài sản tham nhũng quy định trong Công ước của LHQ về chống tham nhũng, gồm: Bổ sung chế định thu hồi tài sản vào Luật Tương trợ tư pháp hiện hành. Bổ sung vào Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành quy định chấp nhận thi hành phần dân sự trong phán quyết hình sự của Toà án hình sự các nước. Nghiên cứu bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng trong Luật PCTN hiện hành. Tiếp tục ký kết hoặc bổ sung, sửa đổi các hiệp định tương trợ tư pháp song phương, đa phương có nội dung về thu hồi tài sản tham nhũng, tiến hành xây dựng Luật về Thu hồi tài sản.

Thứ ba, xây dựng cơ chế thực thi Công ước của LHQ về chống tham nhũng. Nghiên cứu đàm phán, mở rộng ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp song phương, đa phương về lĩnh vực PCTN với các nước thành viên Công ước của LHQ về chống tham nhũng. Đề xuất điều kiện khả năng về hợp tác điều tra: xây dựng quy định, xác định nội dung hợp tác ký kết hiệp định, thoả thuận với các nước để đảm bảo phối hợp hoặc chủ động, độc lập điều tra và thông báo kết quả; tiếp tục nghiên cứu, đề xuất khả năng, điều kiện đáp ứng của Việt Nam để áp dụng phối hợp điều tra chung. Xây dựng quy định về trao đổi với các nước về thông tin, tài liệu, dữ liệu để phục vụ PCTN; về hợp tác với chuyên gia các nước, chia sẻ kinh nghiệm trong công tác PCTN. Rà soát lại những hiệp định thương mại để sửa đổi, bổ sung những quy định không phù hợp, hạn chế, khắc phục những sơ hở trong việc thực hiện các quan hệ thương mại để tránh sự lợi dụng vụ lợi, tham nhũng; có cơ chế kiểm soát chặt chẽ khi các bên tham gia quan hệ thương mại; quy định rõ trách nhiệm giải trình và cung cấp thông tin, xử lý thông tin về tham nhũng của các bên thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao (đại sứ quán, lãnh sự quán).