1. Mở đầu vấn đề

Hội nhập tam giáo – nó là một xu hướng mạnh của tư tưởng Việt Nam vào thế kỷ XVIII. Theo đó, các tầng lớp trí thức Nho học, lực lượng hộ trì tư tưởng Nho gia thời kỳ này có những hoạt động thực tiễn và thảo luận tư tưởng có phần xa rời tinh thần của Nho gia chính thống, dung hợp Phật Đạo.

Khi nói đến cum từ “Hội nhập tam giáo” – Người viết không dùng Tam giáo đồng nguyên, mà người viết đã sử dụng thuật ngữ Hội nhập Tam giáo. Có thể là do từ trước tới nay nhiều người dùng Tam giáo đồng nguyên để chỉ ái chung, cái không mâu thuẫn, cái hòa hợp của Tam giáo từ góc độ giải thích nguồn gốc, giống nhau về mục đích và xuất phát điểm.

Đối với hội nhập Tam giáo – nó chỉ tính khuynh hướng của vận động, sự điều chỉnh tư tưởng của Nho, Phật, Đạo diễn ra ở một thời điểm cụ thể, có chủ thể và mục đích xác định.

 

2. Khái quát về hội nhập tam giáo thế kỷ XVIII

Theo Ngô Thì Sĩ – một người từng dâng lên chúa Trịnh nhiều bản điều trần với mong muốn chấn hưng nho phong sĩ khí, cầu thực học, theo đuổi kinh thế đúng theo lý tưởng trí quân trạch dân của nhà nho lại là người lập tượng thờ cả ba vị, đó là: Khổng tử, Thích Ca và Lão tử, ông viết bài Ký động Nhị Thanh và bài Ký trùng tu đền Tam giáo, lại viết  Sớ hợp tế Tam giáo với tinh thần hoà hợp Tam giáo.

Theo trạng nguyên Nho học Trịnh Tuệ – người mà một cách hợp pháp, được coi là lực lượng đại diện cho bộ mặt tinh thần của Nho sĩ đương thời đã viết Tam giáo nhất nguyên thuyết như một tuyên ngôn về quan điểm hoà đồng tam giáo.

Hay Lê Quý Đôn bàn khá nhiều về Phật giáo trong các trước tác.

Theo Ngô Thì Nhậm người đã từng thể hiện tinh thần chính thống cao độ nhất của Nho gia đương thời khi viết Xuân thu quản kiến, lại đã viết Đại chân viên giác thanh như một thiền sư thực thụ. Thậm chí ông còn mang hoài bão thành một người kế tục vẻ vang sự nghiệp của các vị tổ sư đời Trần.

Theo Phan Huy Ích viết bài tựa trong  Đại chân viên giác thanh với thái độ đồng tình ca ngợi. Lê Hữu Kiều từng theo Phạm Viên tu đạo, cuối đời lại theo nghiệp thờ Phật…

Nguyễn Huy Oánh tương truyền có tham gia viết kinh Đạo giáo.

Vào cuối thế kỷ XVIII, người được giới Nho sĩ tôn là La Sơn Phu tử-Nguyễn Thiếp lại dụng tâm luyện đan dược…

=> Với những nhân vật được nhắc đến ở trên đều là những danh Nho của thế kỷ XVIII, họ là những người có vị trí quan trọng trong lịch sử Nho học nói riêng và lịch sử tư tưởng thế kỷ XVIII nói chung. Bên canh đó, ta có thể thấy các tư tưởng  luân hồi quả báo, nghiệp chướng tình oan, bàng bạc khắp trong các truyện Nôm tài tử giai nhân, truyền kỳ chí quái do các nhà nho đương thời sáng tác. Rõ ràng, các nhà nho thế kỷ XVIII đã có phần rời xa tư tưởng Nho gia chính thống một bước, dung hợp Tam giáo.

 

3. Lịch sử hội nhập tam giáo

Vào thời kỳ Lý Trần, Tam giáo tịnh hành, và hội nhập tam giá – hội nhập trên cơ sở lấy Phật giáo làm bản vị.

Hội nhập tam giáo thời kỳ này lấy thực hành đạo trị, lấy thiên hạ (tức là phương diện chính trị xã hội (cũng đồng thời là vấn đề dân tộc), làm điểm quy kết). Tinh thần bồ tát cứu thế, tinh thần nhập thế hoà quang đồng trần của Phật giáo đời Trần và lý tưởng bình trị thiên hạ của Nho gia gặp nhau đã tạo ra trạng thái khoan dung, hợp nhất của tam giáo, là cơ sở cho Phật giáo chấp nhận Nho giáo và các nhà sư kiêm chính trị gia thời Trần là chủ thể đứng ra tiến hành hội nhập tam giáo.

Điểm quy nhập tam giáo thời này có phần không thuận cho Phật giáo. Đây cũng cũng là nguyên nhân để khởi điểm để Nho gia ngày càng phát huy sở trường. Nhu cầu đời sống chính trị và xu hướng quan liêu hoá bộ máy cai trị có ý nghĩa quyết định phá vỡ tương quan Tam giáo thời Trần, chuyển sang thời kỳ Nho giáo chiếm ưu thế  vào thế kỷ XV.

Vào nửa cuối thế kỷ XV, dưới triều đại Lê Thánh Tông thì:

– Nho giáo chiếm vị trí chủ đạo, nổi bật; cũng từ đây Phật giáo đã chuyển sang ảnh hưởng chủ yếu trong dân gian, trong nhu cầu tinh thần của dân chúng nói chung, trong đó có cả trí thức Nho học.

– Phật giáo giai đoạn này không bị chối bỏ một cách cực đoan. Mẫu hình tiêu biểu nhất của nhà Nho bác văn ước lễ được xác lập. Phật, Đạo thời kỳ này tồn tại như những nhân tố bổ sung trong đời sống tâm linh.

Thực chất vào giai đoạn thế kỷ XIV-XV – đây là sự sắp đặt lại theo sở trường và ưu thế từng học thuyết. Sự sắp đặt này chỉ có thể thực hiện được khi Nho gia đã có sự phát triển nhất định. Tương quan Tam giáo trong thế trưởng thành của cả tư tưởng và văn hoá dân tộc nói chung chứ không phải là một điểm lùi của tư tưởng, theo đó:

– Nho học tách khỏi khối Tam giáo, vươn lên chiếm lĩnh đời sống chính trị xã hội.

– Phật giáo lui về chiếm lĩnh phần sinh hoạt dân gian, phong tục tập quán và một phần tư tưởng kẻ sĩ, tâm linh của trí thức.

Trong mỗi nhà nho đều có phần ảnh hưởng của Phật Đạo, nhưng trong thời thịnh của Nho học, với tư cách là người hành đạo, người phát ngôn chính thức của tư tưởng thánh hiền họ không thảo luận nhiều về Phật, Đạo. ở những thời điểm đó, cái duy lý, tự lạc của Nho gia về cơ bản đủ sức đáp ứng những nhu cầu tinh thần của thế hệ nho sĩ dấn thân yêu đời , triều đình tạo cho họ những cơ hội thoả mãn nhu cầu kinh thế, vì vậy việc tìm sang Phật, Đạo về tư tưởng ít có dịp biểu hiện.

Đến thế kỷ XVI-XVII loạn thế là yếu tố tạo nên những mối quan tâm phức tạp của Nhà Nho. Thời kỳ này, tư tưởng của nho gia ít kiềm toả được nhân tâm. Nhà Nho đứng ra mở rộng hệ thống, tìm tới tư tuởng Phật Đạo như sự điều chỉnh cần thiết để tự thoả mãn. Cuối thế kỷ XVI, ông Trạng nguyên  Nho gia Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết Tam giáo tượng bi minh ở chùa Cáo Dương, huyện Thuỵ Anh (Thái Bình) rằng: “Tôi cũng có lòng thích điều thiện, không dám chối từ. Nhưng tôi là nhà Nho, tuy không được nghe thấu đáo về đạo Phật, đạo Lão, song có đọc rộng suy ngẫm những điều nghi hoặc cũng nắm được một hai về luận thuyết này. Đại loại Phật làm sáng sắc-tâm, phân biệt rõ nhân quả; Đạo Lão chú trọng vào khí đến nhu, nắm cái lý duy nhất giữa bản chất chân thực; Đạo của Khổng tử gốc ở đạo đức nhân nghĩa, văn hạnh trung tín”. 

Mục đích của việc hội nhập tam giáo thời kỳ này là chỉnh đốn nhân tâm. Nhân tâm là vấn đề được cả Tam giáo cùng bàn. Nho gia và Phật  gia đều chú trọng tu dưỡng cá nhân, chế ước nhân tâm.

Ở thời kỳ này hội nhập tam giáo ít có tuyên bố, không rầm rộ, nó được tiến hành một cách lặng lẽ tự nhiên. Vấn đề nhân tâm là mối quan tâm chung, nó là nhịp nối để Nho gia tiến gần tới Phật gia và chấp nhận lẫn nhau. Nho và Phật chấp nhận lẫn nhau ở mục đích.

– Những tác gia tiêu biểu thời kỳ này, đó là: Nguyễn Bỉnh Khiêm; Nguyễn Dữ; Nguyễn Hàng. Theo đó: Các câu chuyện truyền kỳ của Nguyễn Dữ đã vượt bỏ truyền thống “bất ngữ quái lực loạn thần” của nhà Nho từ thời Khổng tử để nói về nghiệp chướng luân hồi quả báo, hoạ phúc sinh tử. Việc viện dẫn các vấn đề tư tưởng của nhà Phật là sự mở rộng về tư tưởng, nhằm tới mục đích ngăn ngừa nhân tâm, khuyến thiện trừng ác. Về phương tiện và công cụ thì phi nho, nhưng mục đích cũng là hộ đạo, ngăn ngừa nhân tâm, hoàn toàn thống nhất với mục đích của nho gia. Vấn đề nhân tâm là điểm để hội nhập tam giáo thế kỷ XVI-XVII.

Đến thế kỷ XVIII, việc hội nhập Tam giáo diễn ra một cách có tuyên bố, có lý luận và nhà nho là người đứng ra làm công việc hội nhập. Điểm quy kết, chỗ dựa và cách thức tiến hành hội nhập cũng có những điểm khác với các giai đoạn trước đó.

 

4. Chủ thể tiến hành hội nhập tam giáo vào thế kỷ XVIII

Ở đây, có thể nhận định: Chủ thể tiến hành hội nhập tam giáo vào thế kỷ XVIII chính nhà là nho.

Vào giai đoạn Lý Trần, Nho giáo còn đang ra sức tạo ảnh hưởng, cố vươn lên vị trí độc tôn. Bối cảnh Tam giáo quân bình thời đó là sự buộc phải chấp nhận đối với Nho gia khi mà nó chưa đủ sức để cải thiện vị trí của mình cả trên trường chính trị cũng như xã hội. Tư tưởng tam giáo đồng nguyên, Tam giáo tịnh hành thời kỳ Lý- Trần được thực hiện với bản vị là Phật giáo. Các nhà sư thực hiện việc hội nhập và lưu hành cả Tam giáo.

Trong tinh thần kẻ sĩ thế kỷ XVIII – Người ta có thể dễ dàng nhận thấy những cái mới trong tư tưởng của họ xuất hiện những “mối dị đoan”, đan xen cái chính thống. Nền chung của tư tưởng Nho gia là tư cường tự lạc trong khuôn khổ việc tồn tâm dưỡng tính. Với một nhà nho chính thống, ôn nhu đôn hậu, tình cảm thăng bình, lấy kiểm soát chế ước điều tiết điều tiết tình cảm làm lẽ thường. Họ vui không thái quá, buồn không bi thương quá. Chí hướng lớn lao của họ là lập mệnh nơi sinh dân, lập thân nơi thiên hạ. Họ có thể tìm được sự thỏa mãn cho nhân sinh trong chính việc hướng tới hoàn thiện cho nhân cách, lấy đạo lý làm thỏa mãn.

Vào thế kỷ XVIII, trong bối cảnh thời đại có nhiều đổi thay, môi trường văn hóa đô thị và tinh thần thị dân mạnh lên cũng có những tác động tới đời sống tinh thần của họ. Kẻ sĩ thời này không còn khuôn trong chuẩn mực của thời Quang Thuận, Hồng Đức thế kỷ XV nữa. Nhiều danh sĩ có những biểu hiện tình cảm phóng túng.

Cụ thể như khi xem tập thơ Khuê ai lục khóc vợ của Ngô Thì Sĩ có thể thấy ngay cái bi thương thái quá, tình cảm ủy mị quá, không còn hợp với đạo tồn dưỡng tỉnh sát, “ai nhi bất thương” của nho gia. Phạm Nguyễn Du từng viết “Luận Ngữ ngu án” đề cao lối học cầu kỷ thành kỷ, theo đuổi sự hoàn thiện của nhân cách rất chuẩn mực của đạo tu dưỡng, lại cũng chính là người viết tập thơ “Đoạn trường lục” bi thương thảm đạm, tình bi tha thiết, rất khác với cách bộc bạch tình hoài của loại nhà nho bác văn ước lễ.

=> Nhận xét: Như vậy, qua hai tập thơ của hai danh nho Ngô Thì Sĩ và Phạm Nguyễn Du ta vừa nêu ở trên đã khuôn tình cảm ủy mị trong phạm vi quan hệ vợ chồng, một loại tình yêu trong hôn nhân, nhưng cái tình thể hiện trong đó khiến người ta có thể thấy được xu hướng giải phóng tình cảm, đề cao con người cá nhân, trọng hạnh phúc trần tục.

Nếu con đường vận động của Nho giáo từ thế kỷ XIV tới thế kỷ XVI đi theo hướng ngày càng tăng cường ràng buộc nhân tâm trong đạo tu dưỡng nội tỉnh theo chuẩn mực, thì có lẽ tới thế kỷ XVIII chính là thời điểm sự ràng buộc đó bị phá vỡ ở từng mảng. Giai đoạn này xuất hiện một xu hướng giải phóng tình cảm, cá tính, cá nhân rất rõ ràng. Điều này biểu hiện trong các tác phẩm của các tác giả: Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Tông Quai, Nguyễn Khản, Nguyễn Du…

Vấn đề nhân sinh được các nhà nho thời kỳ này đặc biệt quan tâm, nó thành vấn đề nổi bật tương tự như vấn đề nhân cách đối với nhà nho thế kỷ XV-XVI. Nhưng cái gọi là giải phóng cá nhân, cá tính, những nhu cầu nhân sinh cần thỏa mãn, ở ta chủ yếu chỉ diễn ra và được làm thỏa mãn bằng cách điều chỉnh trong nội bộ tương quan tam giáo mà thôi. Sự mở rộng từ chuẩn mực tu dưỡng lý tính, đạo lý, khuôn mẫu, hiện thực của Nho gia sang tiêu dao, tự do, theo mô thức Lão Trang đã phần nào đạt tới sự thỏa mãn. Sự siêu thoát tĩnh tịnh của Phật giáo cũng đã có thể bổ sung cho những nhu cầu thoát khỏi ràng buộc của nhân tình hiện thực và những bi kịch của nhà Nho nảy sinh trong trường chính trị cùng các mâu thuẫn không thể giải quyết trong nội bộ tư tưởng của nho sĩ.

Thời loạn, thân phận con người trở lên nhỏ bé. Con người với những buồn vui trần tục hơn, sống động hơn. Tinh thần tự lạc, cương cường tha thiết với việc tu dưỡng của Nho gia không phát huy được ảnh hưởng mạnh (đây cũng chính là một lý do khiến Nhà nho thời này kêu ca về Nho phong sĩ khí, kêu gọi chấn chỉnh phong thái Nhà Nho, phục hưng phong khí nhà Nho thời Hồng Đức- khôi phục học phong thời Hồng Đức cũng là khôi phục tinh thần nho gia chính thống, lý tính, mẫu mực, trọng cộng đồng, xã hội, gánh vác và hy sinh. Người ta gọi thế hệ các nhà Nho thời Hồng Đức là thế hệ dấn thân yêu đời). Bối cảnh đó chính là mảnh đất màu mỡ nảy mầm những tư tưởng Phật Lão, là cơ sở cho việc hội nhập Tam giáo thế kỷ XVIII.

=> Đó chính là một lý do quan trọng khiến Nho sĩ thế kỷ XVIII chủ động hội nhập Tam giáo.

 

5. Nội dung, cách thức và mục đích hội nhập tam giáo

Một số nhà nho thảo luận về những vấn đề rất cơ bản của lý luận Phật giáo thông qua những phạm trù, những khái niệm của Nho gia.

Nói về Ngô Thì Nhậm, ông viết Đại chân viên giác thanh chính là theo hướng đó. Ngô Thì Nhậm không đem phần vũ trụ luận của Phật, Lão Trang dung hợp thành các phạm trù của mình, trang bị cho mình như các học giả đời Tống đã làm. Ông chỉ sử dụng các phạm trù mà Tống Nho đã tạo dựng như Tâm, Tính, Lý, Dục để giải thích trở lại các quan điểm triết học của Phật giáo. Điểm này Ngô Thì Nhậm có chỗ thuận lợi vì chính các bản thể, các phạm trù vừa nêu đã được các học giả đời Tống kiến lập trên cơ sở vay mượn  mô thức tư duy và các quan điểm triết học của Phật giáo. Tống Nho đã đem quan niệm về Phật tính trừu tượng để khái quát và trừu tượng hóa về Nhân tính. Giáo sư Trần Đình Hượu rất có lý khi cho rằng cách làm của Ngô Thì Nhậm không vượt ra ngoài quỹ đạo của Chu Hy. Tuy nhiên cũng cần ghi nhận đây là một cố gắng dung hợp Tam giáo ở tầng thứ nhận thức bản thể.

Đối với Trịnh Tuệ, tác giả này cũng sử dụng các phạm trù của Tống Nho để chứng minh cho cái tương đồng giữa Tam giáo.Công việc này hướng tới quán thông các con đường tu dưỡng và thực hành Đạo của Tam giáo trong một chữ Lý của Nho gia.

Trong khung cảnh hội nhập Tam giáo, hội nhập từ góc độ nhận thức bản thể là khái quát có tính chất nhận thức quy luật chung của tâm tính học như vừa nêu trên nhìn chung là không phổ biến. Sự hội nhập thường được giải thích và tiến hành nhiều hơn ở góc độ tính thực tiễn thiết dụng của các giáo trong Tam giáo. Lợi ích thực tiễn có lẽ là đòi hỏi chính, là điểm quy kết Tam giáo.

Các nho sĩ cho rằng cả tam giáo đều có chung mục đích ra đời là cứu thế, chống loạn, đề cao cuộc sống và giá trị sinh mệnh con người. Xuất phát điểm đó là chung, là giống nhau. Từ gốc chung đó, tam giáo có con đường thực hiện, phương pháp thực hiện, cách thức tu dưỡng khác nhau, nhưng điểm cuối cùng hướng tới lại giống nhau.

Điểm chung hướng tới hội nhập đó là ngăn ngừa nhân tâm, làm tâm tính con người hướng thiện, làm thiện. Cái đó gọi là đồng quy nhi thù đồ. Nhân tâm tiếp tục là điểm quy kết, là nút mở thắt sự hội nhập.

Một chỗ dựa đáng tin cậy của các tôn giáo là hệ thống kinh điển. Muốn chứng minh Tam giáo là không mâu thuẫn, các nhà Nho thế kỷ XVIII cũng cố tìm trong kinh điển những chỗ giải thích cho tư tưởng của tôn giáo khác.  

Để kéo Phật giáo lại gần Nho giáo hơn, họ đã ra sức khuếch trương mặt nhập thế của Phật giáo, tức khiến người làm thiện.

Các nhà Nho cũng cố gắng tìm kiếm một lối mở thông giữa Tam giáo, lối mở thông đó được quan niệm là Đạo, là Đạt Đạo, chỉ những trí thức trình độ cao, nhận thức đến độ nào đó thì thông quán được cả Tam giáo, các môn đồ tầm thường của cả Tam giáo thì chỉ có thể thấy những cái khác nhau giữa Nho- Phật-Đạo mà thôi. Lối mở thông đó cũng chính là mục đích thực tiễn của cả Tam giáo, tức khuyến thiện trừng ác, giáo giới nhân tâm. Điểm này được các nhà nho đặc biệt lưu ý khi tiến hành công việc hội nhập Tam giáo.

Với nhà Nho đã giữ thái độ khoan dung, chấp nhận, hoặc coi Phật Đạo như những bộ phận của mình. Cách thức hội nhập như vậy khó đảm bảo sự khách quan và đối đãi bình đẳng.

Nhà Nho khi làm công việc hội nhập Tam giáo,  ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tư tưởng, vượt ra ngoài sự câu thúc hạn hẹp của tư tưởng Nho gia, một cách tự giác, có tính toán, họ coi đây là một hình thức để  tự bảo vệ vị trí chủ cán của Nho gia. Ngăn chặn ảnh hưởng bằng cách thu nhập nó vào mình, không để chúng thành lực lượng đối lập là điều nhiều nhà Nho thời kỳ này ý thức đến. Nhà Nho nói nhiều về hội nhập, về hòa đồng, nhưng là sự hội nhập và hòa đồng có chính phụ, có thứ bậc và dĩ nhiên Nho giáo phải là chủ đạo.

=> Nhận xét: Hội nhập tam giáo thế kỷ XVIII đối với nhà nho là một sự điều chỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu củng cố chính vị trí của Nho giáo. Nó là con đường để tự cường Nho giáo, công việc này có phần giống như các học giả Đường Tống đã từng làm. Nó không  phải là sự suy yếu, hay khủng hoảng của Nho giáo, mà là cách khôi phục vị trí trung tâm, chủ cán của Nho giaó trong đời sống tư tưởng và văn hoá. Nó chứng tỏ sức dung hợp mở rộng của Nho giáo. Cũng có nghĩa, nó chứng tỏ sức sống của Nho giáo.

 

(MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)

Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).