>> Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.0191
Hợp tác quốc tế là một trong những nội dung quan trọng trong thi hành án hình sự, do đó, Luật Thi hành án hình sự năm 2019 tiếp tục quy định về hợp tác quốc tế trong thi hành án hình sự tại Điều 9 và đã kế thừa quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010, tiếp tục thể chế hóa một bước quan điểm chỉ đạo của Đảng tại tiểu mục 2.6 phần II Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là: “Tô chức thực hiệntốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia. Tiếp tục ký kết hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thôhg’ và quy định tại Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cụ thể là thi hành hình phạt, thi hành biện pháp tư pháp”
1. Bản chất và căn cứ pháp lý trong chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.
Dưới góc độ pháp lý, có thể hiểu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù là việc một quốc gia thực hiện chuyển giao người nước ngoài phạm tội đã bị tòa án của quốc gia đó kết án phạt tù và bản án đã có hiệu lực pháp luật về quốc gia mà người bị kết án là công dân hoặc nước khác đồng ý tiếp nhận, trên cơ sở tự nguyện của người đó, để tiếp tục thi hành bản án theo điều ước quốc tế hoặc theo nguyên tắc “có đi có lại”.
Khái niệm chuyển giao được giải thích cụ thể tại khoản 2 Điều 3 TTLT 01/2013/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC, theo đó, “chuyển giao là việc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam chuyển người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn hoặc tù chung thân tại các cơ sở giam giữ của Việt Nam cho nước tiếp nhận để tiếp tục chấp hành án tại nước đó”
Về bản chất, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù mang tính nhân đạo, xuất phát từ lợi ích của người bị kết án, giúp họ khắc phục những khó khăn trong việc thi hành hình phạt tù (như bất đồng về ngôn ngữ, xa lạ về tập quán địa phương…) và tái hoà nhập cộng đồng xã hội. Trong các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia về chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù cũng như quy định của Luật Tương trợ tư pháp (TTTP) năm 2007, điều kiện bắt buộc là được chính người bị kết án hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý một cách tự nguyện và công khai.
Về cơ sở pháp lý, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù được thực hiện theo điều ước quốc tế (đa phương hoặc song phương) khi có yêu cầu của người đang chấp hành hình phạt tù hoặc yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước chuyển giao hoặc nước tiếp nhận; trường hợp chưa có điều ước quốc tế về chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù thì việc chuyển giao được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc “có đi có lại”, do sự thoả thuận giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và nước ngoài, phù hợp với pháp luật quốc gia, pháp luật và tập quán quốc tế.
2. Hậu quả pháp lý của việc chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.
Về hậu quả pháp lý, thời hạn chấp hành hình phạt mà người bị kết án phải tiếp tục thi hành là phần hình phạt chưa được thực hiện tại quốc gia chuyển giao (nơi tòa án có thẩm quyền đã tuyên bản án). Đối với trường hợp chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài, Tòa án có thẩm quyền của quốc gia tiếp nhận người bị chuyển giao sẽ xem xét và quyết định hình thức, thời hạn còn phải thi hành án. Trong trường hợp có sự xung đột pháp luật giữa quốc gia kết án và quốc gia nhận người bị kết án thì Tòa án của quốc gia tiếp nhận sẽ thực hiện thủ tục chuyển đổi hình phạt đã được tuyên thành hình phạt phù hợp với pháp luật của quốc gia tiếp nhận với điều kiện hình phạt được chuyển đổi sẽ không được nặng hơn hoặc có thời gian dài hơn hình phạt đã được tuyên bởi Tòa án của nước chuyển giao.
3. Về nguyên tắc chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.
Với tính chất là một bộ phận của chính sách đối ngoại, hợp tác quốc tế trong thi hành án hình sự luôn tuân thủ các nguyên tắc quan hệ quốc tế mang tính chất chung của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế theo khuôn khổ Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia. Cụ thể hoá các nguyên tắc trên, thực hiện nhất quán chính sách đối ngoại vì hoà bình, hữu nghị, đa phương hoá, đa dạng hoá, Đảng ta khẳng định: “Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ… theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bình đẳng và cùng có lợi”
Điều 4 Luật TTTP năm 2007 quy định nguyên tắc TTTP nói chung về chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù,
TTTP được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”.
Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều ước quốc tế về TTTP thì hoạt động TTTP được thực hiện trên nguyên tắc “có đi có lại” nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
Nguyên tắc chuyển giao được quy định riêng tại thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC.
Điều 2. Nguyên tắc tiếp nhận, chuyển giao
1. Phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
2. Vì mục đích nhân đạo nhằm tạo thuận lợi cho người đang chấp hành án phạt tù cơ hội được tiếp tục chấp hành phần hình phạt tù còn lại tại nước mà họ mang quốc tịch hoặc nước khác đồng ý tiếp nhận.
3. Ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trường hợp không có điều ước quốc tế thì áp dụng nguyên tắc “có đi có lại” nhưng không được trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế.
Có thể nói, đây là những nguyên tắc rất quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc hợp tác quốc tế song phương và đa phương giữa các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành TTHS của nước ta (trong đó có cơ quan tiến hành tụng) với các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành TTHS của các quốc gia khác; của các tổ chức quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và quá trình giải quyết từng vụ án hình sự cụ thể nói riêng
4. Điều kiện chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù
Về căn cứ chuyển giao,việc chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 49 và được quy định cụ thể tại Điều 50 Luật TTTP năm 2007 và Điều 6 Thông tư liên tịch số 01/2013/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC ngày 22/2/2013 của Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc tiếp nhận, chuyển giao, tiếp tục thi hành án đối với người đang chấp hành hình phạt tù, cụ thể là:
– Điều kiện tiếp nhận người đang chấp hành hình phạt tù: Là công dân Việt Nam, có nghĩa là người đó phải có quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam; người đó có nơi thường trú cuối cùng ở Việt Nam trước khi bị kết án và thi hành án phạt tù ở nước ngoài.
Yếu tố này thường được xem xét cùng với vấn đề quốc tịch của người đó; hành vi phạm tội mà người đó bị kết án ở nước ngoài cũng cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều kiện này nhằm tạo cơ sở cho việc xem xét chuyển đổi hình phạt để có thể tiếp tục chấp hành bản án tại Việt Nam; vào thời điểm nhận được yêu cầu chuyển giao, thời hạn chưa chấp hành hình phạt tù phải còn ít nhất là một năm; trường hợp đặc biệt, thời hạn này còn ít nhất là sáu tháng. Việc quy định thời hạn nhằm bảo đảm thời gian tiếp tục chấp hành án phạt tù tại Việt Nam vẫn có ý nghĩa giáo dục, cải tạo người đó, tạo điều kiện cho họ tái hoà nhập cộng đồng. Quy định này cũng phù hợp với các điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế; bản án đối với người được chuyển giao đã có hiệu lực pháp luật và không còn thủ tục tố tụng nào đối với người đó tại nước chuyển giao; có sự đồng ý của nước chuyển giao: mặc dù ý nghĩa của việc chuyển giao người bị kết án xuất phát từ mục đích nhân đạo nhưng sự đồng ý của nước chuyển giao vẫn mang tính chất quyết định vì đây là nơi người đó đang chấp hành án phạt tù; có sự đồng ý của người được chuyển giao; Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam có quyết định đồng ý tiếp nhận đã có hiệu lực pháp luật.
– Điều kiện chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù: Người đó phải là công dân của nước tiếp nhận hoặc là người được phép cư trú không thời hạn hoặc có người thân thích tại nước tiếp nhận chuyển giao; có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật TTTP năm 2007 thuộc trường hợp thứ nhất đã nêu ở trên và đã thực hiện xong phần trách nhiệm dân sự, hình phạt bổ sung là phạt tiền, tịch thu tài sản và các trách nhiệm pháp lý khác trong bản án; có sự đồng ý của nước tiếp nhận chuyển giao.
Theo quy định tại Điều 50 Luật TTTP năm 2007, khi xem xét chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam hoặc tiếp nhận người đang chấp hành hình phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam, cần phải xem xét toàn diện các điều kiện liên quan đến hai quốc gia cũng như người đang chấp hành hình phạt tù để quyết định.
Tuy nhiên, khi có đủ các điều kiện này thì vẫn có một số ngoại lệ dẫn đến việc từ chối chuyển giao theo quy định tại Điều 51 Luật TTTP năm 2007, như: khi có căn cứ cho rằng người được chuyển giao có thể bị tra tấn, trả thù hoặc truy bức tại nước tiếp nhận chuyển giao; việc chuyển giao có thể phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia của Việt Nam.
5. Hồ sơ chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.
Đối với hồ sơ chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù,khi có yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù, cơ quan có thẩm quyền của nước đề nghị chuyển giao sẽ phải chuẩn bị bộ hồ sơ để gửi cho cơ quan có thẩm quyền của nước được đề nghị (trong hồ sơ cũng phải thể hiện nguyện vọng của người được chuyển giao). Hồ sơ yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù được lập thành ba bộ, phù hợp với pháp luật của nước được yêu cầu.
Theo Điều 65 Luật TTTP năm 2007, Bộ Công an là cơ quan đầu mối của Việt Nam tiếp nhận yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù và cũng là cơ quan thi hành quyết định chuyển giao. Trong trường hợp Việt Nam đề nghị phía nước ngoài chuyển giao thì Bộ Công an cũng là cơ quan chuẩn bị hồ sơ yêu cầu chuyển cho cơ quan chức năng của nước ngoài.
Theo quy định tại Điều 13 TTLT 01/2013/TTLT-BCA-BTP-BNG-VKSNDTC-TANDTC về hồ sơ yêu cầu chuyển giao.
Điều 52. Hồ sơ yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù
1. Hồ sơ yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù phải có các văn bản sau đây:
a) Văn bản của cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người đang chấp hành hình phạt tù yêu cầu chuyển giao người đó;
b) Các tài liệu kèm theo quy định tại Điều 53 của Luật này.
2. Hồ sơ yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù được lập thành ba bộ theo quy định của Luật này và phù hợp với pháp luật của nước được yêu cầu. Ngôn ngữ được sử dụng để lập hồ sơ theo quy định tại Điều 5 của Luật này.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật Hình sự – Công ty luật LVN Group