Bộ luật tố tụng dân sự đã xác định tương đối đầy đủ những người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, qua thực tiễn cho thấy có những người có vai trò rất lớn trong tố tụng, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên đương sự, nhưng chưa được Bộ luật tố tụng dân sự đề cập; hoặc cũng có những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự chưa nhất quán, chưa rõ ràng hoặc quy định quá chung chung nên không có giá trị trong quá trình tố tụng, V.V.. Dưới đây là các vưống mắc, kiến nghị cụ thể.
1. Các thành viên Hội đổng định giá
Định giá tài sản là một biện pháp thu thập chứng cứ, nhưng những thành viên hội đồng định giá khồng được Bộ luật tố tụng dân sự xác định quyền và nghĩa vụ tố tụng, không xác định vị trí tố tụng cho họ; mặc dù vai trò, tính chất hoạt động của người định giá tài sản giống hệt như người giám định, dẫn đến việc thành lập hội đồng định giá gặp nhiều khó khăn (sẽ được đề cập trong bài viết sau về chứng cứ, chứng minh trong tố tụng).
Có thể nói, chúng ta nên coi việc định giá tài sản là một hoạt động giám định về giá. Quyền, nghĩa vụ tố tụng của thành viện hội đồng định giá như quyền, nghĩa vụ của giám định viên. Nếu quan điểm này không được chấp thuận và vẫn coi định giá tài sản không phải là một hoạt động giám định thì Bộ luật tố tụng dân sự cần quy định về quyền, nghĩa vụ tố tụng cho người định giá tài sản và xác định rõ họ là một loại người tham gia tố tụng, từ đó làm cơ sở pháp lý xác định tránh nhiệm, quyền lợi củá người được trưng cầu định giá tài sản và khi cần thiết triệu tập họ ra tòa để giải thích về kết luận định giá.
2. Về xác định diện tích nhà, đất
Từ trước đến nay trong nhiều trường hợp, cán bộ Tòa án thường tự đo đạc để xác định diện tích các bên có tranh chấp. Nên chăng, từ nay trở đi chỉ coi việc làm này là một hoạt động kiểm tra, xem xét, thẩm định tại chỗ để thẩm phán có thể hình dung một cách cụ thể hơn về đối tượng tranh chấp, từ đó có tư duy cụ thể khi phải phân chia hiện vật. Việc làm này không thay thế các hoạt động giám định về diện tích, số đo khi các bên có tranh chấp về diện tích, số đo và yêu cầu Tòa án giải quyết. Để xét xử chính xác thì cần có các nhà chuyên môn, có phương tiện kỹ thuật chuyên dùng về lĩnh vực này để xác định diện tích, số đo đối với phần tranh chấp thì mới bảo đảm độ chính xác cao góp phần tạo ra căn cứ vững chắc cho việc xét xử. Vì vậy, Bộ luật tố tụng dân sự cận quy định việc đo đạc, xác định số đo, diện tích nhà đất là một hoạt động giám định.
3. Cần quy định về thời điểm và người thông báo các tài liệu, chứng cứ thu thập được cho các đương sự
Những ngưòi tham gia tố tụng có vai trò rất lổn trong hoạt động tố tụng của Toà án, là chủ thể quan trọng, trong đó các đương sự là chủ thể trung tâm, Bộ luật tố tụng dân sự đã xác định các quyển và nghĩa vụ tố tụng cho từng loại chủ thể. Nhìn chung, các quy định này là hợp lý. Tuy nhiên, cũng có những quy định chưa đầy đủ, rõ ràng làm cho người tham gia tố tụng gặp khó khăn hoặc gây lúng túng cho người áp dụng pháp luật.
Khoản 8 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định quyển, nghĩa vụ của đương sự có ghi đương sự “được biết và ghi chép… tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập” nhưng được biết bằng cách nào thì chưa có quy định cụ thể. Có lẽ, chúng ta cần phải quy định khi đương sự bên kia xuất trình tài liệu, chứng cứ hoặc tài liệu do Toà án thu thập được thì Toà án hay đương sự giao nộp chứng cứ phải thông báo cho phía đương sự bên kia biết để đương sự có thể đến Toà án đọc, ghi chép.
4. Xét xử vắng mặt theo thủ tục nào?
Tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định: “nguyên đơn, bị đơn, người cố quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ vắng mặt tại phiên toà có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt’’ thì được xử vắng mặt, có nhiều Thẩm phán đưa ra các thắc mắc là xét xử theo thủ tục nào? Có cần phải mở phiên toà không hay xử but lục, V.V.. Vì vậy, nên chăng cần thêm câu “… thì Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo thủ tục chung” và Điều 228 cần được viết lại như sau:
“Điều 228. Xét xử trong trường hợp đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự vắng mặt tại phiên toà
Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ vắng mặt tại phiên toà có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt thì Tòa án xét xử vắng mặt theo thủ tục chung;
Thứ hai: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng có người đại diện tham gia phiên toà;
Thứ ba: Các trường hợp quy định tại điểm b và điểm d khoản 2 Điều 199 của Bộ luật này.
Thứ tư: Đương sự có đơn yêu cầu hoặc đơn khởi kiện cùng đồng thời với việc có đơn xin giải quyệt vắng mặt thì Tòa án có thụ lý giải quyết hay không? Điều này vẫn chưa được quy định rõ trong Bộ luật tố tụng dân sự
Khoản 12 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định khi tham gia tố tụng đương sự có các quyền, nghĩa vụ sau đây… “tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án”, v.v. và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành cho phép các đương sự có đơn xin xử vắng mặt thì Toà án sẽ xử vắng mặt. Do đó, nhiều Thẩm phán lúng túng, vướng mắc khi gặp trường hợp cả hai đương sự cố đơn yêu cầu xin ly hôn và xin Toà án thụ lý, giải quyết vắng mặt. Hai bên đương sự xin giải quyết vắng mặt đã gửi tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn xin ly hôn, đơn có xác nhận của đại sứ quán, lãnh sự quán (đương sự ỏ nước ngoài) hoặc có xác nhận của chính quyền địa phương (trường hợp ở trong nước) thì Toà án có quyền thụ lý, giải quyết vắng mặt họ không? Những quy định vể xét xử vắng mặt được quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dãn sự hiện hành chỉ đề cập việc vắng mặt tại phiên tòa, chưa bao hàm được các trường hợp nêu trên. Vì vậy, Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành cần được bổ sung hoặc có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn các trường hợp có đơn xin vắng mặt như thế nào thì được thụ lý, giải quyết, trường hợp nào thì không được thụ lý giải quyết. Theo tác giả, nếu cả hai bên đương sự gửi đơn xin lý hôn tới Tòa án và để nghị Tòa án thụ lý giải quyết vắng mặt cả hai bên đương sự trong toàn bộ quá trình tố tụng thì không chấp nhận, vì sẽ gặp rất nhiều trở ngại trong quá trình thu thập chứng cứ, vụ án sẽ kéo dài do phải có văn bản gửi qua, gửi lại ýêú cầu cung cấp chứng cử, tài liệu v.v. và không hòa giải được. Nhưng quan trọng hơn cả là nếu chấp nhận đương sự gửi đơn, tài liệu chứng cứ đến Tòa án và xin giải quyết vắng mặt cả hai bên đương sự mà Tòa án vẫn chấp nhận thụ lý, giải quyết thì khó có thể giải quyết đúng đắn vụ án, xác suất sai lầm là rất lớn.
Tuy nhiên, nếu sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì cần chú ý: trừ trường hợp xin ly hôn không được ủy quyền, các trường hợp khác mà pháp luật đằ chấp nhân đương sự được phép ủy quyền cho người khác thì không bắt buộc đương sự phải có mặt tại tòa. Do đó, cần hướng dẫn rõ cả hai bên đương sự có quyền vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng, nếu đương sự đã ủy quyền toàn bộ cho người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trừ trường hợp sự có mặt của đương sự là rất cần thiết để làm sáng tỏ vấn đề nào đó của vụ án thì mới yêu cầu đương sự có mặt.
5. Cần quy định rõ cơ chế xử lý với người làm chứng không trung thực
Tại khoản 7, 8 và khoản 9 Điều 78 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành có quy định: người làm chứng phải bồi thường thiệt hại và chịu, trách nhiệm trước pháp luật do những khai bầo sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác; bị dẫn giải người làm chứng đến phiên toà nếu vắng mặt không có lý do chính đáng; người làm chứng khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, từ chối khai báo hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Những quy định này quá chung chung và mới ỏ dạng nguyên tắc nên chưa đi vào cuộc sống. Trên thực tế, người làm chứng khai báo sai sự thật, khai gian dôi rất nhiều trong các vụ việc dân sự. Có trường hợp lúc đầu. nhân chứng khai theo một hướng sau đó lại thay đổi lờỉ khai theo hưống khác, thậm chí ngược hẳn lại và có dấu hiệu bị đương sự bên kia tác động nên khai bâo không thống nhất, từ chối khai báo, không đến phiên toà, không đến Toà ấn theo giấy triệu tập, gây rất nhiều khó khăn cho các Toà án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Mặc dù tại phần thứ tâm, từ Điều 384 đến Điều 390 Bộ luật tô tụng dân sự hiện hành quy định xử lý hành chính một số hành vi nhưng trên thực tế hầu như không xử lý được. Nguyên nhân là chưa có các quy định hướng dẫn chi tiết, cụ thể, cách thức, phương pháp, biện pháp, hình thức, mức độ vi phạm như thế nào thì xử lý, nên những quy định trên chỉ tồn tại trên giấy. Vì vậy, nêu sửa Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành, nên có hẳn một chương quy định thật cụ thể, khi cần thì ban hành thêm một nghị định hưống dẫn chi tiết hơn về phương pháp, cách thức xử lý hành chính và thông tư liên tịch hướng dẫn về xử lý hình sự các hành vi đó thì mói biến các quy định đó thành hiện thực.
6. Quy định về người đại diện
Trong quá trình áp dụng quy định về ngươi đại diện trong Bộ luật tố tụng dân sự thường có nhiều sai sót. Có những sai sót là do lỗi chủ quan của Thẩm phán như xác định người đại diện là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ việc dân sự, còn không xác định địa vị tố tụng của người được đại diện trong các bản án, quyết định hoặc coi cả hai đều là đương sự. Người đại diện theo uỷ quyền sẽ có quyền và nghĩa vụ tố tụng trong phạm vi uỷ quyền nhưng giấy uỷ quyền ghi không rõ, hoặc chỉ uỷ quyền cho đến theo dõi, nghe Toà phán quyết thì Toà án lại cho họ tham gia tố tụng với tư each ngưòi đại diện, V.V.. Tuy nhiên, cũng có những sai sót là do luật chưa quy định thật rõ ràng gây khó khăn, vưóng mắc khi áp
dụng. Ví dụ, khi nào người đại diện được ký vào đơn khởi kiện thay người đại diện, khi nào không được ký. Tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 và Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tôì cao có đề cập vấn đề đại diện và quyền ký đơn khởi kiện nhưng cũng chưa để cập rõ hết các vấn để, dẫn đến vẫn có lúng túng, sai sót và tại Công văn số 38/KHXX ngày 29-3-2007, Tòa án nhân dân tôì cao đã hướng dẫn rõ thêm mổi giải tỏa được lúng túng cho các Thẩm phán. Có thể nói, những vấn đề nêu trên sau này nên quy định rõ hơn trong Bộ luật tố tụng dân sự. Đôì với trường hợp đại diện theo uỷ quyền nên quy định theo hướng nếu người uỷ quyền đã uỷ quyền toàn bộ cho người đại diện (là cá nhân, cơ quan, tổ chức) kể cả quyền khởi kiện thì ngưòi đại diện có quyền ký đơn khởi kiện thay cho người khởi kiện, như vậy sẽ thuận tiện hơn cho các bên đương sự.
7. Người có liên quan trong vụ việc dân sự
Tại Điểu 313 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành có quy định về những người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự, trong đó người yêu cầu giải quyết việc dân sự thì có thể hiểu quyền và nghĩa vụ tố tụng của người yêu cầu được vận dụng tương ứng với quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn; nhưng Điều 361 nêu trên không đề cập ngưòi bị yêu cầu, người có quyển lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự, nhưng lại có quy định về “người có liên quan”; vậy, “người có liên quan” có bao gồm người có quyền, nghĩa vụ liên quan và người bị yêu cầu không? Hay “người có liên quan” là để chỉ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn trong việc dân sự không có người bị yêu cầu? hoặc “người có liên quan” là một thuật ngữ chỉ một loại người tham gia tố tụng mới? thuật ngữ “người có liên quan” tạo ra sự mơ hồ. Trong Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành không có quy định quyền và nghĩa vụ của “người có liên quan” để áp dụng cho họ. Nếu áp dụng các quy định tương ứng thì phải chăng áp dụng quy định ở Điều 72 hay Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành?
Có thể cho rằng, trong việc dân sự không chỉ có người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc dân sự mà có những việc dân sự có người bị yêu cầu, ví dụ: anh A yêu cầu Toà án tuyên bố anh B là người mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự; Cục Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em, Hội Phụ nữ đứng đơn yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa anh M và chị Q. Đòi hỏi đặt ra của người yêu cầu nếu được Toà án chấp nhận sẽ trực tiếp xâm phạm đến lợi ích của anh B (trong việc yêu cầu Tọà án tuyên bố anh B mất năng lực hành vi dân sự) và trực tiếp xâm phạm lợi ích của anh M và chị Q (trong việc yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật). Anh B có thể chứng minh rằng mình là ngưòi không bị mất năng lực hành vi dân sự; anh M và chị Q có thể chứng minh quan hệ hôn nhân của mình hoàn toàn hợp pháp, họ có quyền yêu cầu Toà án bác bỏ đề nghị cuă người yêu cầu trong vụ án dân sự. Các lợi ích của anh B, anh M và chị Q đã bị yêu cầu của người yêu cầu tác động trực tiếp, họ là chủ thể chính trong quan hệ dân sự đó chứ không phải giông quyền và nghĩa vụ củã người có quyền, nghĩa vụ liên quan như trong vụ án dân sự là chủ thể phát sinh từ quan hệ chính. Do đó, nếu xếp họ vào chung loại người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì có gì đó không hợp lý, nên xếp họ vào một loại người tham gia tố tụng riêng, đó là người bị yêu cầu, thực tế trong phần quy định về thẩm quyền đã có lúc dùng thuật ngữ người bị yêu cầu. Trường hợp nhà làm luật cho rằng trong việc dân sự không cố người bị yêu cầu thì cần chọn một khái niệm nào đó sát hơn với quan hệ tố tụng mà họ tham gia, từ đó quy định cho họ các quyền và nghĩa vụ tương ứng, có như vậy mới bảo đảm được sự bình đẳng về tố tụng, mới bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ đầy đủ hơn.
Dù Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011 nhưng vẫn chưa quy định về quyển, nghĩa vụ của các thành viên Hội đồng định giá, không xác định vị trí tô tụng của họ… là không hợp lý, nhưng để bảo đảm tính khách quan trong việc định giá, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 đã bổ sung vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 là “người tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều 46 của Bộ luật này không được tham gia Hội đồng định giá”, Đồng thời, bổ sung thêm một hình thức xác định giá trị tài sản, đó là thẩm định giá.
Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành đã bỏ cụm từ “có lý do chính đáng” trong Điều 199 và bỏ quy định tại Điểu 200, 201 và quy định gộp vào trong một điều là Điều 199 theo hướng nếu đã được triệu tập hợp lệ mà có đương sự vắng mặt thì chỉ được hoãn phiên tòa một lần, triệu tập hợp lệ lần thứ hai dù có đương sự khác vắng mặt, phiễn tòa vẫn được tiến hành bình thường.
Những sửa đổi, bổ sung nói trên là hợp lý, nhưng vẫn còn có những vướng mắc, quy định chưa hợp lý gây khó khăn cho các bên trong quá trình tố tụng cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới, nhằm làm cho Bộ Luật tố tụng dân sự ngày càng hoàn chỉnh. Vì thế, tác giả vẫn giữ nguyên bài viết để bạn đọc tham khảo.