1. Quy định chung về định giá tài sản
Việc định giá tài sản được tiến hành trong những trường hợp khác nhau, như trước khi phát mại tài sản, thanh lí tài sản, bán đấu giá tài sản… Người có quyền định giá tài sản thường là người có quyền sở hữu đối với tài sản. Khi một người được chủ sở hữu ủy quyền một cách hợp pháp, người được ủy quyền cũng có quyền định giá tài sản. Trong một số trường hợp, theo quy định của pháp luật việc định giá tài sản phải do một hội đồng thực hiện. Trong một số trường hợp khác, theo quy định của pháp luật, việc định giá một tài sản phải được thực hiện trong một khung giá với mức giá trần do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Trong trường hợp tài sản được bán đấu giá, người bán tài sản (chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu uỷ quyền bán hoặc người có quyền bán tài sản của người khác theo quy định của pháp luật) xác định giá khởi điểm với sự tham gia của người bán đấu giá. Người bán đấu giá xác định giá khởi điểm trong trường hợp được người bán tài sản uỷ quyền và phải báo cho người bán tài sản trước khi thông báo công khai về việc bán đấu giá. Trong trường hợp tài sản bán đấu giá là tài sản cầm cố, thế chấp thì người nhận cầm cố, thế chấp cùng người cầm cố, người thế chấp xác định giá khởi điểm với sự tham gia của người bán đấu giá. Nếu người cầm cố, người thế chấp vắng mặt không có lí do chính đáng hoặc từ chối kí kết hợp đồng bán đấu giá thì giá khởi điểm do người bán đấu giá xác định với sự tham gia của người nhận cầm cố, người nhận thế chấp.
2. Định giá tài sản theo quy định luật tố tụng hình sự hiện nay
Trong quá trình tố tụng, nếu xét thấy cần xác định giá trị của tài sản có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự như liên quan đến việc xác định tội phạm, định tội, định khung hình phạt, quyết định hình phạt… thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá tài sản (từ Điều 215 đến Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015).
Văn bản yêu cầu định giá tài sản ghi rõ tên cơ quan và người có thẩm quyền yêu cầu; tên hội đồng định giá được yêu cầu; thông tin và đặc điểm của tài sản, các tài liệu kèm theo (nếu có); nội dung yêu cầu định giá; ngày, tháng, năm yêu cầu và thời hạn trả kết quả định giá tài sản. Trong hạn 24 giờ, kể từ khi ra văn bản yêu cầu định giá tài sản, văn bản này phải gửi cho hội đồng định giá tài sản được yêu cầu kèm theo hồ sơ, đối tượng yêu cầu định giá; gửi văn bản yêu cầu định giá tài sản cho viện kiểm sát có thẩm quyền. Việc định giá tài sản được tiến hành bằng một phiên họp của hội đồng định giá tài sản, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán có thể tham dự cuộc họp nhưng phải báo trước cho hội đồng định giá tài sản biết. Nếu không đồng ý với kết luận lần đầu, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tự mình hoặc theo yêu cầu của người bị buộc tội, người tham gia tố tụng khác có quyền ra văn bản yêu cầu định giá lại bằng hội đồng định giá tài sản cấp trên trực tiếp. Trường hợp có mâu thuẫn giữa hai kết luận này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền ra văn bản yêu cầu định giá lại lần thứ hai bằng hội đồng định giá có thẩm quyền. Trường hợp tài sản cần định giá bị thất lạc hoặc không còn thì việc định giá dựa trên các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản. Trường hợp đặc biệt, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc định giá lại tài sản khi đã có kết luận định giá lại lần thứ hai. Việc định giá lại trong trường hợp này phải do hội đồng định giá tài sản khác thực hiện và kết luận của hội đồng định giá lần này là kết luận cuối cùng để giải quyết vụ án.
3. Căn cứ định giá tài sản trong tố tụng hình sự
Việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự khi cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự được tiến hành theo các căn cứ nêu tại Nghị định 30/2018/NĐ-CP ngày 07/03/2018 của Chính phủ quy định việc thành lập và hoạt động của hội đồng định giá tài sản (HĐĐG); trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự.
Theo đó, việc định giá tài sản không phải là hàng cấm phải dựa trên ít nhất một trong các căn cứ gồm: Giá thị trường của tài sản; Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định; Giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp; Giá trong tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá (nếu có); Các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá.
Việc định giá tài sản là hàng cấm phải dựa trên ít nhất một trong các căn cứ theo thứ tự ưu tiên gồm:
– Giá mua bán thu thập được trên thị trường không chính thức tại thời điểm và tại nơi tài sản là hàng cấm được yêu cầu định giá hoặc tại địa phương khác;
– Giá ghi trên hợp đồng hoặc hóa đơn mua bán hoặc tờ khai nhập khẩu hàng cấm (nếu có);
– Giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp;
– Giá thị trường trong khu vực hoặc thế giới của hàng cấm do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thông báo hoặc cung cấp thông tin;
– Giá niêm yết, giá ghi trên hợp đồng hoặc hóa đơn mua bán hoặc tờ khai nhập khẩu của tài sản tương tự được phép kinh doanh, lưu hành, sử dụng tại Việt Nam;
– Giá thị trường trong khu vực và thế giới của tài sản tương tự được phép kinh doanh, lưu hành, sử dụng tại các thị trường này;
– Các căn cứ khác giúp xác định giá trị của tài sản cần định giá do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự cung cấp và chịu trách nhiệm về tính chính xác, tin cậy của các căn cứ này.
4. Phương pháp định giá tài sản trong tố tụng hình sự
Bên cạnh các quy định về căn cứ định giá tài sản, Nghị định còn quy định chi tiết về phương pháp định giá tài sản như sau:
– Căn cứ vào loại tài sản; thông tin và đặc điểm của tài sản; tình hình khảo sát giá, thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần định giá; HĐĐG thực hiện định giá tài sản theo tiêu chuẩn về thẩm định giá, phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ và các tiêu chuẩn, phương pháp định giá quy định tại pháp luật chuyên ngành liên quan đến tài sản cần định giá.
– Ngoài việc định giá theo quy định tại Nghị định, thì đối với một số trường hợp cụ thể, việc định giá tài sản đồng thời tiến hành như sau:
+ Tài sản chưa qua sử dụng: HĐĐG xác định giá của tài sản theo giá của tài sản giống hệt còn mới hoặc tài sản tương tự còn mới (nếu không có tài sản giống hệt);
+ Tài sản đã qua sử dụng: HĐĐG xác định giá của tài sản trên cơ sở xác định giá trị thực tế của tài sản;
+ Tài sản bị hủy hoại, hư hỏng một phần; tài sản bị hủy hoại, hư hỏng toàn bộ nhưng vẫn có khả năng khôi phục lại tình trạng của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng: Trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu xác định giá trị thiệt hại của tài sản bị hủy hoại, hư hỏng một phần hoặc toàn bộ, HĐĐG xác định giá trên cơ sở chi phí khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng một phần hoặc toàn bộ;
+ Tài sản bị mất, thất lạc; tài sản bị hủy hoại, hư hỏng toàn bộ và không có khả năng khôi phục lại tình trạng của tài sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng: HĐĐG xác định giá của tài sản theo hồ sơ của tài sản trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản cần định giá;
+ Tài sản là hàng giả: HĐĐG xác định giá tài sản theo giá của hàng thật hoặc giá của tài sản tương tự theo quy định của Bộ luật Hình sự;
+ Tài sản không mua bán phổ biến trên thị trường; tài sản là kim khí quý, đá quý, di vật, cổ vật hoặc vật có giá trị văn hóa, tôn giáo, khảo cổ, kiến trúc, lịch sử: HĐĐG xác định giá tài sản dựa trên kết quả giám định, ý kiến đánh giá của cơ quan có thẩm quyền và chuyên gia về lĩnh vực này hoặc giá trị ghi trong hồ sơ, tài liệu của tài sản.
5. Quy định về kết luận định giá tài sản trong pháp luật tố tụng hình sự
Việc xử lý hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được quy định từ Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985. Theo đó, ở một số tội danh cụ thể đã có quy định về hành vi “chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn”, từ đó, cho thấy việc xác định giá trị tài sản bị xâm hại là bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Qua những lần pháp điển hóa, BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đều quy định cụ thể về giá trị tài sản bị xâm hại trong cấu thành tội phạm.
Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự (BTTHS) năm 1988 đã ghi nhận: “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”. Đồng thời, tại Điều 47 BLTTHS năm 1988 quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự cũng yêu cầu phải xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Tuy nhiên, Điều 48 BLTTHS năm 1988, Điều 64 BLTTHS năm 2003 khi quy định về chứng cứ đều không quy định căn cứ xác định giá trị thiệt hại của tài sản.
Ngày 02/3/2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 26/2005/NĐ-CP về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự (Nghị định số 26/2005), trong đó quy định cụ thể về việc ban hành Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự. Sau đó, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định về Kết luận định giá tài sản và xem đây là một trong những nguồn chứng cứ phải có trong quá trình giải quyết vụ án hình sự liên quan đến tài sản bị thiệt hại. Để khắc phục một số bất cập của Nghị định số 26/2005, ngày 07/3/2018, Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2018/NĐ-CP quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản, trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự (Nghị định số 30/2018), đồng thời, ngày 07/5/2018, Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số 43/2018/TT-BTC hướng dẫn một số điều của Nghị định số 30/2018.
6. Việc xác định giá đối với vật, tài sản có tính năng đặc biệt
6.1. Đối với tài sản là gia súc, gia cầm, thú nuôi:
Khoản 1 Điều 217 BLTTHS năm 2015 quy định về tiến hành định giá tài sản như sau: “Việc định giá tài sản do Hội đồng định giá tài sản tiến hành. Phiên họp định giá tài sản có thể thực hiện tại nơi có tài sản được định giá hoặc nơi khác theo quyết định của Hội đồng định giá tài sản.”
Để xác định giá trị tài sản bị thiệt hại, Nghị định số 30/2018 đã quy định việc định giá phải phù hợp với giá thị trường của tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự với tài sản cần định giá tại thời điểm và nơi tài sản được yêu cầu định giá. Một trong các căn cứ định giá tài sản là giá thị trường của tài sản, có thể được xác định theo giá bán buôn, giá bán lẻ của tài sản cùng loại hoặc tài sản tương tự.
Quy định chung là như vậy, tuy nhiên đối với một số tài sản là gia súc, gia cầm hay thú nuôi thì việc định giá chưa được thực hiện đúng theo quy định trên mà phần lớn dựa vào nhận thức chủ quan của các cơ quan, người tiến hành tố tụng để vận dụng trong thực tiễn.
Ví dụ: Trong vụ chiếm đoạt tài sản là gà chọi (gà đá), đây là gà trống giống hay được nuôi dùng để chọi ăn cuộc, do đó, gà chọi có giá cao hơn gà thịt thông thường, có con giá vài triệu đồng nhưng có những con gà có giá trị cả tỉ đồng. Cũng có những con chó nuôi được xem là thú cưng có giá trị từ 10 triệu đến trên 200 triệu đồng. Tuy nhiên, Hội đồng định giá chỉ xác định giá trị tài sản theo giá gà thịt, chó thịt với vài chục ngàn đồng/kg. Để bảo vệ cho quan điểm của mình, những người định giá cũng như những người tiến hành tố tụng cho rằng: Nếu xác định gà chọi có giá trị cao hơn gà thịt, đồng nghĩa với việc cho phép đánh bạc ăn thua bằng tiền, vì thế không được tính giá gà chọi theo giá thị trường mà phải tính theo giá gà thịt và quan điểm này đang được áp dụng trong thực tiễn.
Theo tác giả, ý kiến trên là chưa phù hợp. Theo cách hiểu gà chọi là gà được nuôi riêng và dùng để mang đi chọi, việc chọi ăn cuộc không nhất thiết phải là hình thức được thua bằng tiền hay hiện vật, bởi trong đời sống xã hội, nhiều cuộc chọi gà được phép tổ chức trong các lễ hội dân gian. Nếu lạm dụng việc chọi gà để cá cược nhằm thu lợi bất chính thì tùy tính chất, mức độ mà bị xử lý theo quy định của pháp luật. Cũng như việc đánh bài, pháp luật không cấm nếu việc đánh bài đó không có tính sát phạt, không được thua bằng tiền hay hiện vật mà chỉ là giải trí. Việc định giá gà chọi, thú nuôi với giá tính trên kilôgam bán tiêu dùng sẽ thiệt hại đến quyền của bị hại. Nhiều trường hợp, người thực hiện hành vi phạm tội khi trộm được gà chọi, thú nuôi đã bán với giá cao nhưng khi bị phát hiện thì chỉ nhận là bán với giá kilôgam thịt theo giá thị trường tiêu dùng nhằm chiếm đoạt tài sản và không phải chịu trách nhiệm hình sự trước pháp luật (bởi giá trị định giá không đủ định lượng cấu thành tội phạm).
Có thể thấy, việc nhận thức và vận dụng pháp luật nói trên chưa đảm bảo quyền lợi của bị hại, là kẽ hở khiến tội phạm không bị xử lý. Do đó, Liên ngành Trung ương cần có hướng dẫn việc định giá tài sản là gia súc, gia cầm, thú nuôi đúng với giá trị thực tế của tài sản bị xâm hại; kịp thời khắc phục thiếu sót nêu trên.
6.2. Về chứng thư, giấy xác định quyền tài sản:
Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tài sản là vật, nhưng có phải bất cứ vật nào cũng là tài sản hay không? Trên cơ sở lý luận cho rằng, thuộc tính tài sản là vật phải có giá trị thành tiền, là đối tượng trong trao đổi tài sản và khi chúng không còn tồn tại thì quyền sở hữu bị chấm dứt thì một số vật không được xác định là tài sản. Điển hình như: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy đăng ký xe máy… Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất chỉ là một chứng thư và là một bằng chứng chứng minh quyền sử dụng đất, không phải là giấy tờ có giá và từ đó cho thấy các loại giấy tờ, chứng thư trên không được xem là tài sản. Vấn đề này phù hợp với hướng dẫn tại Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân tối cao về thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy.
Như vậy, hành vi chiếm đoạt các giấy tờ trên không được xác định là vi phạm pháp luật, bởi vì các loại giấy tờ trên không được xem là tài sản. Thời gian qua, có nhiều trường hợp tranh chấp và đã chiếm đoạt trái phép các vật nói trên, khi đưa ra xác định giá trị tài sản thì không định giá, thậm chí dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc chiếm đoạt các vật trên, có đủ dấu hiệu khách quan của tội “cướp tài sản” hay tội “cưỡng đoạt tài sản” (quy định tại các điều 168, 171 BLHS năm 2015) nhưng vì không xác định các vật trên là tài sản nên các đối tượng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật không bị xử lý.
Tuy không phải là giấy tờ có giá, nhưng hoàn toàn có thể xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vật. Điều này là hợp lý, bởi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tồn tại dưới hình thức vật chất nhất định, thậm chí có hình dạng cụ thể (là tờ giấy) nằm trong khả năng chiếm hữu của con người (có thể thực hiện việc nắm giữ, chiếm giữ, quản lý đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), có giá trị sử dụng (được dùng để chứng minh quyền sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất). Việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không thể tham gia vào giao dịch trao đổi mua bán không làm mất đi bản chất tài sản của nó. Có quan điểm cho rằng: “Việc Tòa án nhân dân tối cao coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản dẫn đến nhiều hệ quả không giải thích được về lý luận và thực tế, đồng thời làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người sử dụng đất”.
Theo tác giả, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như các giấy tờ, chứng thư pháp lý là một trong những loại giấy tờ có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự công nhận của nhà nước đối với người sử dụng đất hợp pháp. Việc chiếm giữ trái phép những loại giấy tờ trên ảnh hưởng không nhỏ đến quyền của chủ sở hữu. Là một vật được tồn tại do con người tạo ra với một khoản chi phí nhất định (giấy, lệ phí..) nên nó có giá trị riêng. Nếu bị mất mát, hư hỏng, chủ sở hữu phải làm lại và phải tốn một khoản chi phí nhất định. Vì thế, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các chứng thư và giấy tờ khác không được xác định là giấy tờ có giá nhưng cũng cần xem đây là một loại tài sản, và giá trị của nó được xác định bằng chi phí làm lại giấy thông qua các khoản trích thu giấy và lệ phí nhất định.
6.3. Đối với tài sản là động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm:
Nghị định số 30/2018 quy định việc định giá tài sản là hàng cấm phải dựa trên ít nhất một trong những căn cứ sau: Giá thị trường của tài sản mua bán không chính thức; giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định; giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp; giá trong tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá (nếu có); các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá.
Hiện nay chưa có cơ quan, tổ chức nào quy định về giá của các loại động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm. Việc xác định giá chủ yếu dựa vào việc xác minh thực tế tại địa phương. Hơn nữa, khi tiếp nhận thông tin về việc mua bán không chính thức thì cơ quan chức năng có phải xử lý hay không khi người cung cấp thông tin đã thực hiện hành vi mua bán hoặc chứng kiến hành vi mua bán mà không báo cơ quan chức năng ngăn chặn kịp thời. Ở mỗi địa phương hoặc khu vực sẽ có giá khác nhau nên việc áp dụng giá không thống nhất, dẫn tới việc áp dụng pháp luật không công bằng. Cùng về một hành vi, đối với cùng một loài, một cá thể động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm thì ở địa phương này người vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn ở địa phương khác thì có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.