Khách hàng: Kính thưa Luật sư LVN Group, hệ thống là gì? Hệ thống xã hội gồm những loại nào?
Cảm ơn!
Trả lời:
1. Tiếp cận hệ thống là gì?
Hệ thống (system) là một tập hợp các bộ phận hoạt động phụ thuộc lẫn nhau để đạt mục đích chung. Hệ thống có nhiều cấp độ, từ nhóm, tổ chức, quốc gia, liên quốc gia… Hệ thống đóng là hệ thống độc lập và không tương tác với môi trường bên ngoài. Hệ thống mở là hệ thống tương tác với môi trường bên ngoài để tồn tại. Hệ thống mở vì sự tồn tại của tổ chức phụ thuộc vào sự tương tác với môi trường xung quanh. Trong thực tiễn, hai loại hệ thống này không hoàn toàn phân biệt. Điểm then chốt để phân loại một hệ thống thuộc tương đối đóng hay tương đối mở là xác định lượng tương tác giữa hệ thống và môi trường.
Để hiểu rõ một tổ chức, cần xác định thành phần liên quan đến hoạt động và khám phá cách thức tương tác của nó. Tư duy hệ thống mở sẽ giúp nhà quản trị quan tâm đến các khía cạnh quản lý khác nhau của tổ chức, cũng như thực tiễn bên trong và bên ngoài, xem xét khả năng các nguồn lực, sự phát triển công nghệ, xu hướng thị trường khi sản xuất và bán sản phẩm hay dịch vụ.
Một số người nhận xét rằng, tư duy hệ thống thiên về sự hấp dẫn tri thức và thuật ngữ sẽ thiếu sự kiện minh chứng cụ thể và tiếp cận thực tiễn. Mặt khác, nên tránh so sánh tương đồng giữa tổ chức xã hội và hệ thống vật lý hay sinh học. Tiếp cận hệ thống không chỉ là một tập hợp kiến thức mà là một cách thức để tư duy về quản trị tại các tổ chức hiện đại.
2. Hệ thống xã hội
Trong xã hội học, một hệ thống xã hội là mạng lưới các mối quan hệ khuôn mẫu tạo thành một tổng thể thống nhất tồn tại giữa các cá nhân, nhóm và tổ chức. Đó là cấu trúc chính thức của vai trò và trạng thái có thể hình thành trong một nhóm nhỏ, ổn định. Một cá nhân có thể thuộc nhiều hệ thống xã hội cùng một lúc; ví dụ về các hệ thống xã hội bao gồm các đơn vị gia đình hạt nhân, cộng đồng, thành phố, quốc gia, trường đại học, tập đoàn kinh tế và ngành công nghiệp. Tổ chức và định nghĩa của các nhóm trong một hệ thống xã hội phụ thuộc vào các thuộc tính chung khác nhau như vị trí, tình trạng kinh tế xã hội, chủng tộc, tôn giáo, chức năng xã hội hoặc các đặc điểm khác biệt.
3. Các nhà lý thuyết xã hội
Việc nghiên cứu về các hệ thống xã hội là không thể thiếu trong các lĩnh vực xã hội học và chính sách công. Các hệ thống xã hội đã được nghiên cứu kể từ khi xã hội học xuất hiện. (Theo từ điển bách khoa tòa thư).
a. Talcott Parsons
Talcott Parsons là người đầu tiên xây dựng một lý thuyết có hệ thống về các hệ thống xã hội, mà ông đã thực hiện như một phần của mô hình AGIL của mình. Ông định nghĩa một hệ thống xã hội chỉ là một phân khúc (hay “hệ thống con”) của cái mà ông gọi là lý thuyết hành động. Parsons tổ chức các hệ thống xã hội theo các đơn vị hành động, trong đó một hành động được thực hiện bởi một cá nhân là một đơn vị. Ông định nghĩa một hệ thống xã hội là một mạng lưới tương tác giữa các tác nhân. Theo Parsons, các hệ thống xã hội dựa trên một hệ thống ngôn ngữ và văn hóa phải tồn tại trong một xã hội để nó đủ điều kiện trở thành một hệ thống xã hội. Công trình của Parsons đặt nền móng cho phần còn lại của nghiên cứu lý thuyết hệ thống xã hội và châm ngòi cho cuộc tranh luận về những hệ thống xã hội nào nên được xây dựng xung quanh, chẳng hạn như hành động, giao tiếp hoặc các mối quan hệ khác.
b. Niklas Luhmann
Niklas Luhmann là một nhà xã hội học và nhà lý thuyết hệ thống xã hội nổi tiếng, người đã đặt nền móng cho tư tưởng hệ thống xã hội hiện đại. Ông dựa trên định nghĩa của mình về một “hệ thống xã hội” trên mạng lưới giao tiếp rộng rãi giữa con người và định nghĩa xã hội là một hệ thống “tự trị”, nghĩa là một hệ thống tự tham chiếu và tự lực khác biệt với môi trường của nó. Luhmann coi các hệ thống xã hội thuộc ba loại: hệ thống xã hội, tổ chức và hệ thống tương tác. Luhmann coi các hệ thống xã hội, như tôn giáo, luật pháp, nghệ thuật, giáo dục, khoa học, v.v., là những hệ thống khép kín bao gồm các lĩnh vực tương tác khác nhau. Các tổ chức được định nghĩa là một mạng lưới các quyết định tự tái sản xuất; định nghĩa của ông là khó áp dụng trong việc tìm kiếm một ví dụ trong thế giới thực. Cuối cùng, hệ thống tương tác là hệ thống tự tái tạo trên cơ sở giao tiếp thay vì ra quyết định.
c. Jay Wright Forrester
Jay Wright Forrester thành lập lĩnh vực động lực học hệ thống, liên quan đến việc mô phỏng các tương tác trong các hệ thống động. Trong công việc của mình trên các hệ thống xã hội, ông thảo luận về các khả năng của động lực hệ thống xã hội, hoặc mô hình hóa các hệ thống xã hội sử dụng máy tính với mục đích kiểm tra các tác động có thể có của việc thông qua các chính sách hoặc luật mới. Trong bài viết của mình, ông đã nhận ra những khó khăn trong việc sản xuất một hệ thống mô hình máy tính đáng tin cậy, nhưng lập luận rằng một mô hình không hoàn hảo tốt hơn không có và chỉ đơn giản là thực hiện chính sách mới.
Forrester lập luận rằng các chính sách công không thành công nhằm mục đích điều trị các triệu chứng hơn là nguyên nhân của các vấn đề xã hội và họ thường tập trung vào các nỗ lực hơn là kết quả. Điều này xảy ra bởi vì hiểu biết không đầy đủ hoặc sự hiểu lầm về nguyên nhân của một vấn đề từ phía các nhà hoạch định chính sách, điều này thường dẫn đến các chính sách không hiệu quả hoặc bất lợi làm nặng thêm các vấn đề mà họ đã thực hiện để sửa chữa hoặc gây ra các vấn đề khác. Một vấn đề khác của Forrester lưu ý là một số chính sách có thể hoạt động tốt trong dài hạn có thể làm trầm trọng thêm một vấn đề trong ngắn hạn. Một chính sách thành công theo Forrester phải nhắm mục tiêu các điểm đòn bẩy chính xác, trong trường hợp này là khía cạnh của vấn đề xã hội, nếu được sửa đổi, sẽ tạo ra hiệu ứng đủ lớn để khắc phục vấn đề.
4. Các loại hệ thống xã hội
Mọi cộng đồng con người nói chung – từ bộ lạc cổ xưa nào đó, nhà nước của người Aztek cho đến nhà nước quốc gia – dân tộc hiện nay, được xác định vừa là một hiện tượng xã hội phổ biến, vừa là một hệ thống phức tạp. Điều đó có nghĩa rằng, có thể xem cộng đồng như vậy (vói mục đích phân tích hệ thống) là tổng thể các hệ thống khác nhau, tùy thuộc vào khía cạnh nghiên cứu. Nhà chính trị học người Pháp Zdan – Viljam Laper, trong cuốn sách Phân tích các hệ thông chính trị (1973), đã phân ra năm hệ thống như vậy. Những hệ thống đó là: (i) hệ thống sinh học xã hội; (ii) hệ thống sinh thái; (iii) hệ thống kinh tế; (iv) hệ thống văn hóa; (v) hệ thống chính trị.
– Hệ thống sinh học xã hội là hệ thống mà ở đó diễn ra hoạt động tái sản xuất dân cư.
– Hệ thống sinh thái là hệ thống chỉ ra rằng, con người bao giờ cũng sống ở một lãnh thổ nhất định do con người xây dựng nên, cùng vói thế giói động vật và thực vật.
– Hệ thống kinh tế là hệ thống sản xuất và trao đổi của cải và dịch vụ vật chất để làm thỏa mãn các nhu cầu của các thành viên của cộng đồng. Sự phân chia và tổ chức lao động, các quan hệ sản xuất, v.v. tạo thành hệ thống đó.
– Hệ thống văn hóa là hệ thống sáng tạo ra và phổ biến thông tin có giá trị, ý nghĩa (ngôn ngữ, đạo đức, nhận thức, tập quán, truyền thống, tín ngưỡng). Nhờ có lĩnh vực các dấu hiệu, biểu tượng, quy phạm, giá trị mà con người có được khả năng giao tiếp với nhau, tức là xác lập các mối quan hệ giao tiếp lẫn nhau.
– Hệ thống chính trị là hệ thống tổ chức nên xã hội một cách đặc biệt và bằng cách đó gắn liền vói các hệ thống xã hội khác.
Ngoài các hệ thống nói trên, trong xã hội còn tồn tại các hệ thống khác nữa, ví dụ như: hệ thống chính sách, trong đó có chính sách pháp luật; hệ thống pháp luật.
5. Phạm trù hệ thống chính sách pháp luật
Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, qua tìm hiểu các tài liệu, các nghiên cứu cho thấy khái niệm chính sách được thể hiện khác nhau, các nhà hoạch định chính sách tương đối thống nhất về những nội dung cơ bản của khái niệm “chính sách” như sau:
Chính sách là những quy định, quyết định đã được thể chế hóa bởi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra, thực hiện những mục tiêu đã được xác định.
Chính sách của Nhà nước có thể được hiểu là tập họp văn bản mà Chính phủ xây dựng, ban hành với các mục đích rõ ràng, tác động đến nhóm người hoặc toàn bộ người dân trong xã hội. Hầu hết các chính sách được thể hiện dưới dạng văn bản pháp luật và các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, ở nghĩa rộng hơn, chính sách là tổng thể các quan điểm, giải pháp và công cụ mà chủ thể quản lý (Nhà nước) sử dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trong một giai đoạn, thời kỳ lịch sử cụ thể. Những mục tiêu này không nằm ngoài định hướng của mục tiêu tổng quát.
Phạm trù hệ thống chính sách pháp luật tập trung đến mối liên hệ lẫn nhau giữa các bộ phận khác nhau của quá trình chính sách pháp luật và cho phép so sánh hệ thống chính sách pháp luật vói các hệ thống khác đang tồn tại trong xã hội.
Khi phân tích phạm trù hệ thống chính sách pháp luật cần phải gắn phạm trù đó với các khái niệm, phạm trù có mối quan hệ với nó. Đó là các khái niệm, phạm trù liên quan đến nhà nước, các cơ quan nhà nước và các thiết chế phi nhà nước.
Phạm trù đó có thể được áp dụng để nghiên cứu các xã hội cổ đại, nơi mà hoạt động chính sách, trong đó có chính sách pháp luật được tiến hành thông qua các cấu thành gia đình, bộ lạc, bộ tộc và các cấu thành không đặc trưng khác.
Với sự hỗ trợ của phạm trù đó có thể nghiên cứu ở mức độ toàn cầu các mối liên hệ lẫn nhau của các quốc gia mà từ đó hình thành nên hệ thống chính sách phấp luật quốc tế bao gồm các bộ phận địa chính sách pháp luật khác nhau (ví dụ, chính sách pháp luật của các nước Tây Âu), các bộ phận chính sách pháp luật của các tổ chức khác nhau (Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam A),…, các bộ phận chính sách pháp luật của các quốc gia khác nhau (Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, v.v.,), trong đó một số bộ phận cấu thành có thể được coi là các biến số.
Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật LVN Group (Sưu tầm và Biên soạn).