1. Khái niệm về giáo hội Phật giáo Việt Nam?
Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) là tổ chức Phật giáo toàn quốc của Việt Nam, là đại diện Tăng, Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước, là thành viên các tổ chức Phật giáo Quốc tế mà Giáo hội tham gia và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Giáo hội được thành lập sau Hội nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội, được triệu tập bởi Ban Vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam vào ngày 7 tháng 11 năm 1981 nhằm thống nhất tất cả sinh hoạt Phật giáo của tăng ni, phật tử Việt Nam. Quyền Pháp chủ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay là đại lão hòa thượng Thích Trí Quảng. Ngoài Văn phòng Trung ương Giáo hội đặt tại Chùa Quán Sứ thì Văn phòng Thường trực của Giáo hội tại Thành phố Hồ Chí Minh đặt tại Thiền viện Quảng Đức.
Phương châm của Giáo hội là: Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kính ngưỡng, phụng hành Giáo pháp, Giới luật Phật chế và tuân thủ Pháp luật nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
2. Lịch sử hình thành GHPGVN
Từ khi du nhập vào Việt Nam, đạo Phật tồn tại và phát triển theo truyền thống sơn môn. Các sơn môn sinh hoạt độc lập, ít có sự liên hệ và chịu sự chi phối của các sơn môn khác.
Khi thực dân Pháp đem quân xâm lược nước ta, cũng là lúc Pháp mang theo văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo phương Tây truyền bá vào Việt Nam, mặt khác ra sức kỳ thị, chèn ép Phật giáo với mưu đồ xoá dần tín ngưỡng, tôn giáo, văn hoá truyền thống của người dân Việt. Trong nước, Phật giáo không còn được sự ủng hộ như trước đây … Bản thân Phật giáo lúc này nặng về tín ngưỡng hơn tư duy. Từ bối cảnh đó, một số Tăng Ni, Cư sĩ có tâm huyết và tinh thần đạo pháp, dân tộc đã quyết tâm chỉnh đốn lại bằng cách mở trường Phật học, dịch kinh điển sang chữ quốc ngữ cho Tăng Ni, Phật tử dễ học, dễ hiểu, xây dựng các cơ sở xã hội, ra các tờ tạp chí với mục đích giúp đỡ nhau cùng học Phật và hoằng pháp, nêu cao tinh thần dân tộc. Chương trình học văn hoá cũng được đưa vào giáo dục cho Tăng Ni.
Phong trào “Chấn hưng Phật giáo” ở cả 3 miền Trung – Nam – Bắc trong những thập niên 30, 40 của thế kỷ XX đã thổi bùng lên truyền thống yêu nước và ý thức trách nhiệm đối với Dân tộc và Đạo pháp của Tăng Ni, Phật tử, nhất là sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Cùng với các tổ chức cứu quốc khác, Phật giáo cứu quốc ra đời…
Phật giáo Việt Nam đã ý thức được rằng muốn có sức mạnh thật sự phải cùng nhau đoàn kết, tập hợp nhau trong một tổ chức để chấn hưng đạo pháp, bảo vệ văn hoá truyền thống, góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là lý do để Phật giáo tiến hành các cuộc vận động thống nhất Phật giáo trong cả nước:Cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần thứ nhất (năm 1951) với sự tham dự của 6 đoàn thể Phật giáo ở 3 miền; Cuộc vận động thành lập Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam ở các tỉnh, thành phố phía Bắc (năm 1957, 1958); Cuộc vận động thống nhất Phật giáo năm 1964 tại miền Nam để thành lập nên “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất”. Tuy nhiên, sự thống nhất của 3 cuộc vận động này chưa được trọn vẹn vì đây không phải là sự thống nhất của Phật giáo trên toàn quốc mà chỉ là sự thống nhất của một số tổ chức Phật giáo hay của một miền.
Cuộc vận động thống nhất Phật giáo cả nước, thành lập GHPGVN
Đầu năm 1980, thể theo nguyện vọng của toàn thể Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử, các vị Giáo phẩm đại diện cho các tổ chức hệ phái lớn của Phật giáo họp tại thành phố Hồ Chí Minh và quyết định thành lập “Ban Vận động thống nhất Phật giáo” để xúc tiến cuộc vận động trong phạm vi cả nước, bao gồm đại diện của 9 tổ chức, hệ phái:
– Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam (ở miền Bắc);
– Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (Ấn Quang);
– Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh;
– Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam;
– Giáo hội Tăng già nguyên thuỷ Việt Nam;
– Hội đoàn kết sư sãi yêu nước Tây Nam bộ (Phật giáo Khmer);
– Giáo phái Khất sĩ Việt Nam;
– Giáo hội Thiên Thai giáo quán tông;
– Hội Phật học Nam Việt.
Tháng 11/1981 Đại hội thống nhất Phật giáo đã được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội với sự tham dự của 168 vị Giáo phẩm, Tăng Ni, Cư sĩ đại diện cho 9 tổ chức, hệ phái nói trên để thành lập nên một tổ chức chung của Phật giáo cả nước lấy tên là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” (GHPGVN). Tại Lời nói đầu của Hiến chương, GHPGVN đã khẳng định: Sự thống nhất Phật giáo Việt Nam đặt trên nguyên tắc: “Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, tuy nhiên, các truyền thống hệ phái và phương tiện tu hành đúng chính pháp vẫn được duy trì”, và xác định “Phương châm hoạt động của GHPGVN là: Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, “GHPGVN là tổ chức Giáo hội duy nhất đại diện cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước”. Hiến chương GHPGVN đã khẳng định: “Mục đích của GHPGVN là điều hoà, hợp nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam cả nước để hộ trì hoằng dương Phật pháp và tham gia xây dựng bảo vệ Tổ quốc, phục vụ dân tộc, góp phần xây dựng hoà bình, an lạc cho thế giới”.
3. Các kỳ Đại hội của GHPGVN
GHPGVN ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng đoàn kết, thống nhất Phật giáo Việt Nam của đông đảo Tăng Ni, Phật tử Phật giáo Việt Nam để thực hiện sự nghiệp truyền bá và duy trì giáo lý Phật giáo, đóng góp công sức cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Đến nay, GHPGVN đã trải qua 6 kỳ Đại hội.
– Đại hội lần thứ I (nhiệm kỳ 1981 – 1987) của GHPGVN chính là Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 11/1981. Đây được coi là thời kỳ xây dựng nền móng cho GHPGVN. Về hệ thống tổ chức GHPGVN có 2 cấp: cấp TW và cấp tỉnh dưới sự lãnh đạo của 2 Hội đồng: Hội đồng Chứng minh (HĐCM) và Hội đồng Trị sự (HĐTS); giúp việc cho TW Giáo hội có 2 Văn phòng: Văn phòng I (đặt tại Hà Nội) và Văn phòng II (đặt tại thành phố Hồ Chí Minh) và 6 ban hoạt động (Ban Tăng sự; Ban Giáo dục Tăng Ni; Ban Hướng dẫn nam nữ Cư sĩ Phật tử; Ban Hoằng pháp; Ban Nghi lễ; Ban Văn hóa), thành lập được 28 Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh.
– Đại hội lần thứ II (nhiệm kỳ 1987 – 1992) GHPGVN tổ chức vào tháng 10/1987. Đây là giai đoạn phát triển các mặt hoạt động theo chương trình nội dung 6 điểm của Giáo hội trong thời kỳ đổi mới của xã hội và đất nước, số lượng Ban Trị sự được thành lập lên tới 33 đơn vị và bổ sung thêm 2 ban ngành hoạt động (Ban Kinh tế nhà chùa và Từ thiện xã hội; Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam) thành 8 ban chuyên môn.
– Đại hội lần thứ III (nhiệm kỳ 1992 – 1997) GHPGVN tổ chức vào tháng 11/1992. Đây là giai đoạn tiếp tục phát triển và hoàn chỉnh các mặt hoạt động của Giáo hội. Giáo hội đã có 10 ban, viện hoạt động và được duy trì cho tới ngày nay (thành lập thêm Ban Phật giáo Quốc tế và tách Ban Kinh tế nhà chùa và Từ thiện xã hội thành 2 ban: Ban Kinh tế Tài chính và Ban Từ thiện xã hội) và 41 Ban Trị sự Phật giáo.
– Đại hội lần thứ IV (nhiệm kỳ 1997 – 2002) GHPGVN tổ chức vào tháng 11/1997. Giáo hội đã thành lập được 45 đơn vị tỉnh, thành hội Phật giáo trong cả nước với 10 ban, viện hoạt động.
– Đại hội lần thứ V (nhiệm kỳ 2002 – 2007) GHPGVN tổ chức vào tháng 12/2002. Đây là nhiệm kỳ GHPGVN củng cố các ban, viện. Kết thúc nhiệm kỳ, GHPGVN đã có 54 Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo.
– Đại hội lần thứ VI (nhiệm kỳ 2007 – 2012) GHPGVN tổ chức vào tháng 12/2007. Đại hội được coi là một bước thay đổi lớn trong quá trình phát triển của GHPGVN, nổi bật là cải tiến về vấn đề nhân sự tham gia vào bộ máy lãnh đạo của Phật giáo ở các cấp, đặc biệt quan tâm đến sự kế thừa trong Giáo hội, ưu tiên trọng dụng đội ngũ Tăng Ni trẻ có trình độ và uy tín, năng lực. Đại hội cũng đã thông qua bản Hiến chương sửa đổi có quy định về Đạo kỳ, Đạo ca và hệ thống tổ chức được nâng lên 3 cấp thay vì 2 cấp như trước đây: cấp TW – cấp tỉnh – cấp huyện; tăng số lượng thành viên tham gia HĐCM, HĐTS và Ban Trị sự Phật giáo.
Trên cơ sở hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ của Đạo Phật và các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động tôn giáo, GHPGVN đã trải qua 6 kỳ Đại hội với 4 lần sửa đổi Hiến chương (tại Đại hội lần thứ II, III, IV và VI) và đã có những điều chỉnh kịp thời trong từng giai đoạn nhất định cho phù hợp với yêu cầu và thực tế khách quan để củng cố tổ chức và đáp ứng được yêu cầu đề ra.
* Về số lượng: Tính đến tháng 6/2010, GHPGVN có 56/63 Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo cấp tỉnh, 01/63 Ban Đại diện Phật giáo cấp thị xã (chưa có tổ chức bộ máy Phật giáo cấp tỉnh); 14.775 cơ sở thờ tự, 44.498 Tăng Ni (trong đó Bắc tông có 32.165 vị, Nam tông có 9.379 vị, Khất sĩ có 2.954 vị) và trên 10.000.000 tín đồ được phân bố trên phạm vi toàn quốc.
4. Thành phần tham gia GHPGVN
Thành phần của GHPGVN gồm các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam, Tăng Ni và Cư sĩ thuộc các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam đã hợp nhất, hình thành GHPGVN và chấp nhận Hiến chương của GHPGVN.
Thành phần Tăng, Ni trong GHPGVN gồm 2 thành phần: giáo phẩm và đại chúng.
– Thành phần giáo phẩm
+ Giáo phẩm Tăng: Hoà thượng, Thượng tọa
+ Giáo phẩm Ni: Ni trưởng, Ni sư
– Thành phần đại chúng: gồm những Tăng, Ni đã thụ giới Tỳ kheo (Đại đức), Tỳ kheo Ni (Sư cô), Thức xoa Ma na, Sa di, Sa di Ni.
5. Cơ cấu tổ chức
– Cấp Trung ương
+ HĐCM: gồm các vị Hoà thượng tiêu biểu của các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam có 70 tuổi đời, 50 tuổi đạo trở lên, không giới hạn số lượng và được Đại hội Phật giáo toàn quốc suy tôn. HĐCM suy cử một Ban thường trực do một vị Hoà thượng Pháp chủ đứng đầu. Ban thường trực HĐCM có nhiệm vụ: Chứng minh các Hội nghị Trung ương và Đại hội GHPGVN; Hướng dẫn và giám sát các hoạt động của Giáo hội về mặt đạo pháp và giới luật; Phê chuẩn tấn phong chức vị giáo phẩm Hoà thượng, Thượng toạ, Ni trưởng, Ni sư của GHPGVN; Ban hành Thông điệp về Phật đản, Thư chúc tết và tình hình GHPGVN trong những tình huống đặc biệt.
+ HĐTS: gồm các vị Hoà thượng, Thượng toạ, Đại đức, Tăng Ni và Cư sĩ của Giáo hội do Ban thường trực HĐTS tiền nhiệm đề cử và Đại hội đại biểu GHPGVN suy cử. HĐTS là cấp điều hành cao nhất của Giáo hội về các mặt hoạt động của Giáo hội giữa hai kỳ Đại hội, ấn định chương trình hoạt động hàng năm của Giáo hội theo đúng Nghị quyết của Đại hội đại biểu GHPGVN và đôn đốc, kiểm soát việc thực hiện chương trình đó. HĐTS có nhiệm vụ suy cử một vị Hoà thượng Chủ tịch đứng đầu và suy cử Ban thường trực để Ban này thay mặt HĐTS điều hành hoạt động của GHPGVN theo nội quy của mình và có đệ trình để HĐCM biết.
Bộ máy giúp việc cho hoạt động ở cấp TW gồm có 9 ban, 1 viện (Ban Tăng sự, Ban Giáo dục Tăng Ni, Ban Hướng dẫn Phật tử (gồm 2 phân ban: Cư sĩ Phật tử và Gia đình Phật tử), Ban Hoằng pháp, Ban Nghi lễ, Ban Văn hóa, Ban Kinh tế – Tài chính, Ban Từ thiện xã hội, Ban Phật giáo Quốc tế, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (có 1 phân viện đặt tại Hà Nội)) và 4 vị ủy viên kiểm soát, 2 ủy viên pháp chế, 2 văn phòng.
Các ban, viện hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban. Chương trình hoạt động phải phù hợp với Nội quy hoạt động của Ban thường trực HĐTS và được Ban thường trực HĐTS thông qua mới được thực hiện. Các ban, viện có thể thành lập các phân ban, phân viện để phụ trách các chuyên ngành hoạt động theo nội quy riêng được Ban thường trực HĐTS chuẩn y. Việc sửa đổi, bổ sung nội quy do từng ban, ngành, viện đề xuất và được Ban thường trực HĐTS GHPGVN xét duyệt, chấp thuận.
Hai văn phòng GHPGVN: có trách nhiệm giúp việc cho HĐCM, HĐTS và phối hợp với các ban, viện triển khai công tác Phật sự trong lĩnh vực hành chính, văn phòng.
Nhiệm kỳ hoạt động của Ban thường trực HĐCM, HĐTS và các ban, viện, ủy viên, văn phòng là 5 năm, tương ứng với nhiệm kỳ Đại hội.
– Cấp tỉnh: Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo có trách nhiệm điều hành hoạt động của Phật giáo địa phương theo đúng Hiến chương của Giáo hội và phù hợp với pháp luật Việt Nam, đồng thời triển khai các công việc Phật sự theo sự chỉ đạo của HĐTS GHPGVN.
– Cấp huyện: Ban Đại diện Phật giáo là cơ quan giúp việc cho Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo cấp tỉnh, thực hiện các công việc Phật sự ở địa phương mình theo chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ theo nội quy do Giáo hội ban hành.
Những phường xã, thị trấn có nhiều cơ sở thờ tự và Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử thì Ban Đại diện Phật giáo giới thiệu để Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh bổ nhiệm một đại diện phường, xã, thị trấn hay liên phường, xã, thị trấn tại địa phương làm đầu mối để giúp Ban Đại diện Phật giáo cấp huyện liên hệ với các cơ sở của Giáo hội về mặt sinh hoạt tín ngưỡng.