1. Khái quát về trọng tài ở Nhật Bản

Trọng tài là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Toà án đượccác bên lựa chọn đêr giải quyết tranh chấp thương mại. Đó là việc các bên đồng ý trước việc giải quyết một tranh chấp (thoả thuận trọng tài) bằng việc tuân thủ một phán quyết của trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba. Mặc dù việc phân xử trọng tài thường được sử dụng để giải quyết các tranh chấp liên quan tới các giao dịch quốc tế, nhưng lại không được ưa chuộng trong sử dụng để giải quyết các tranh chấp trong nước.

2. Thoả thuận trọng tài ở Nhật Bản

Điều 786 Bộ luật tố tụng Dân sự quy định rằng thoả thuận đưa tranh chấp ra giải quyết bằng phương thức trọng tài có hiệu lực khi các bên hoàn toàn thoả thuận về đối tượng của tranh chấp. Điều 787 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định rõ ràng  thêm rằng thoả thuận đưa tranh chấp giải quyết bằng trọng tài có hiệu lực chỉ khi nó liên quan đến quan hệ về quyền và tranh chấp phát sinh từ quan hệ đó.  Bộ luật Tố tụng Dân sự công nhận sự khác nhau giữa thoả thuận đưa vụ tranh chấp đang có cũng như tranh chấp sẽ xảy ra trong tương lai ra giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên không có sự phân biệt đặc biệt trong việc áp dụng nhiều điều khoản khác nhau quy định về trọng tài. Mỗi loại thoả thuận này đều được coi là thoả thuận trọng tài. Điều khoản trọng tài trong hợp đồng thương mại liên quan đến thoả thuận trọng tài về tranh chấp đang có và tranh chấp xảy ra trong tương lai, có hiệu lực theo quy định tại các điều 786 và 787 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. 

3. Hình thức của thoả thuận trọng tài:

Không có quy định nào tại Bộ luật Tố tụng Dân sự Nhật bản rằng thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Thoả thuận trọng tài có thể được lập trực tiếp hoặc gián tiếp, bằng cách nêu rõ hay thông qua hành động ngụ ý.  Tuy nhiên, riêng với Quy chế của trọng tài JCAA thì  “thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản”.

4. Các bên trong trọng tài:

Không có quy định nào hạn chế việc một người viện dẫn đến trọng tài để giải quyết tranh chấp. Thẻ nhân hay pháp nhân, không phân biệt quốc tịch, có thể là một bên trong vụ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nhà nước hay cơ quan Nhà nước có thể là một bên trọng vụ trọng tài với bên kia là công dân nước mình hay công dân nước ngoài.

Bất kỳ một cá nhân nào có năng lực pháp luật hoặc năng lực ký kết hợp đồng có thể ký kết thoả thuận trọng tài cũng như có quyền thoả thuận về đối tưuợng của vụ tranh chấp. Tương tự như vậy, bất kỳ người nào, dù là thể nhân hay pháp nhân, nếu có năng lực tố tụng có thể là một bên trong vụ trọng tài.

5. Thẩm quyền của trọng tài:

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, chỉ những vấn đề nào có thể đưa ra Toà án mới được giải quyết bằng trọng tài. Sự định giá giá trị của tài sản trong vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của trọng tài, nhưng thoả thuận về việc định giá tài sản trong giải quyết tranh chấp cho một bên thứ ba là có hiệu lực và có tính thi hành bới nó thiết lập  và xác định quyền hợp đồng và nghĩa vụ giữa các bên.

Những vấn đề không thuộc đối tượng của vụ tranh chấp theo thoả thuận của các bên sẽ không  được giải quyết bằng trọng tài. Một ví dụ là những vấn đề kỹ thuật của bằng phát minh sáng chế. Điều 171 của Luật Phát minh sáng chế quy định rằng những nội dung kỹ thuật của bằng phát minh sáng chế thuộc thẩm quyền xác định của Tổng giám đốc của Văn phòng Phát minh sáng chế. Giải quyết bằng trọng tài những vấn đề liên quan đến bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá v.v.. phụ thuộc vào bản chất của vấn đề, được quy định tại Điều 786 của Bộ luật. Những vấn đề như phá sản hay vi phạm luật chống độc quyền không thuộc phạm vi giải quyết bằng trọng tài.

6. Vấn đề độc lập của điều khoản trọng tài:

Toà án coi điều khoản trọng tài độc lập với những vấn đề khác của hợp đồng thương mại. Trong vụ việc điển hình Kokusan Kinzoku KCgyC.K.K. v. Guard-Life Corporation, Toà án đã tuyên rằng: “Khi thoả thuận trọng tài độc lập được ký kết kèm theo hợp đồng chính, vấn đề hiệu lực của thoả thuận trọng tài cần được xác định một cách độc lập với hợp đồng chính. Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, hiệu lực của thoả thuận trọng tài không trực tiếp bị ảnh hưởng thậm chí cả khi hiệu lực của hợp đồng chính bị ảnh hưởng”.  

7. Trọng tài viên:

7.1. Tiêu chuẩn:

Bộ luật Tố tụng Dân sự không quy định tiêu chuẩn của trọng tài viên. Bất kỳ một người nào có năng lực pháp luật có thể hành nghề trọng tài. Người nước ngoài cũng có thể hành nghề trọng tài trong một vụ tố tụng  trọng tài tại Nhật bản. Ban Hội thẩm trọng tài viên của JCAA liệt kê danh sách rất nhiều người với các quốc tịch và nghề nghiệp khác nhau. Một người không thường trú tại Nhật bản cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên. Các bên của thoả thuận trọng tài có thể đưa ra tiêu chuẩn của các trọng tài viên đã chỉ ra trong thoả thuận trọng tài.

Một nguyên tắc nền tảng của pháp luật Nhật bản là trọng tài viên cần phải khách quan. Điều 20 Quy chế trọng tài JCAA quy định: “không có ai có có quyền lợi liên quan trong vụ việc trọng tài được phép trở thành trọng tài”. Quy chế trọng tài hàng hải JSE , tại Mục 14 quy định rằng “Hội đồng trọng tài hàng hải chỉ định ứng cử  trọng tài  viên phải là “những người không có quan hệ gì với các bên đương sự hay nội dung của vụ tranh chấp”.

7.2. Thay đổi trọng tài viên:

Các bên trong vụ trọng tài có thể huỷ bỏ danh sách trọng tài viên khi nghi ngờ về sự không công bằng của họ. Điều 792(1) của Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định rằng các bên trong vụ trọng tài có thể thay đổi trọng tài viên dựa trên những lý do và điều kiện như khi các bên đương sự thay đổi thẩm phán trong vụ kiện tại Toà án. Thêm vào đó, Điều 792(2) quy định rằng trọng tài viên được chỉ định bằng cách khác ngoài các quy định trong thoả thuận trọng tài có thể bị thay đổi nếu không thực hiện đúng trách nhiệm của mình.  Các bên cũng có thể thay đổi trọng tài trong trường hợp trọng tài viên bị bệnh, câm, điếc, ốm đau v.v…

7.3. Số lượng trọng tài viên:

Bộ luật Tố tụng Dân sự không quy định số lượng trọng tài viên. Các bên có quyền tự xác định số lượng trọng tài viên. Bộ luật Tố tụng Dân sự chỉ đơn giản quy định trường hợp các bên không có thoả thuận về số lượng trọng tài viên. Điều 788 quy định rằng “trong trường hợp thoả thuận trọng tài không quy định về việc chỉ định trọng tài viên, mỗi bên sẽ chỉ định 1 trọng tài viên của mình”. Như vậy, Bộ luật Tố tụng Dân sự cho phép có số lượng chẵn các trọng tài viên trong một vụ việc trọng tài.

Tuy nhiên, theo Điêu 21(1) của Quy chế trọng tài JCAA, thì các bên có thể, bằng thoả thuận văn bản, chỉ định một hay nhiều trọng tài viên hoặc đưa ra số lượng và cách thức lựa chọn, cũng như thời hạn phục vụ của trọng tài viên. Điều 21(2) yêu cầu các bên thông báo cho trọng tài JCAA về những vấn đề họ đã thoả thuận tại đoạn 1 trong vòng ba tuần kể từ ngày nhận được thông báo của JCAA về việc thụ lý vụ trọng tài.  Theo Điều 23, nếu các bên không thông báo cho JCAA về số lượng trọng tài viên mà họ đã thoả thuận, thì chỉ có một trọng tài viên duy nhất sẽ tiến hành vụ trọng tài, trừ trường hợp có một trong các bên đề nghị JCAA bằng văn bản về việc chỉ định 3 trọng tài viên trong thời hạn 4 tuần kể từ khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và JCAA đã chấp thuận thụ lý vụ yêu cầu đó.

Theo Quy chế trọng tài hàng hải JSE, Mục 14(1), Hội đồng trọng tài hàng hải Tokyo có nghĩa vụ chỉ định số lẻ các trọng tài viên, hoặc một trọng tài viên duy nhất.

7.4. Chỉ định trọng tài viên:

Nếu các bên không thoả thuận về phương thức chỉ định trọng tài viên, thì theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự Nhật bản, Điều 789(1), bên nguyên trong vụ trọng tài phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn về tên của trọng tài viên mà bên đó chọn, và đề nghị bị đơn cũng chỉ định trọng tài viên của mình trong thời hạn 7 ngày. Nếu trong thời hạn này mà bị đơn không chỉ định trọng tài viên của mình, thì nguyên đơn đề nghị Toà án thay mặt bị đơn chỉ định trọng tài viên.

Theo Điều 790, một bên đã chỉ định trọng tài viên sẽ bị ràng buộc với quyết định đó sau khi đã thông báo cho bên đương sự kia về trọng tài viên mà mình đã chỉ định. Ngoài ra, theo Điều 791, trong trường hợp trọng tài viên không được chỉ định tại thoả thuận trọng tài bị chết, hay bị tước chức vụ  vì một lý do nào đó, hoặc trọng tài viên từ chối tuân thủ nghĩa vụ trọng tài, thì bên đã chỉ định trọng tài viên này, theo đề nghị của bên đương sự kia, sẽ chỉ định trọng tài viên khác trong thời hạn 7 ngày. Nếu quá thời hạn này, Toà án có thẩm quyền sẽ chỉ định trọng tài viên theo đề nghị của phía bên kia.

7.5. Quyền hạn và nghĩa vụ của trọng tài viên:

Luật trọng tài quy định những điều khoản sau về thủ tục trọng tài:

Trước khi đưa ra phán quyết, trọng tài cần phải nghe chất vấn các bên đương sự, và tiến hành các phiên họp khác nếu thấy cần thiết, nhằm điều tra các vấn đề là nguyên nhân của vụ tranh chấp theo Điêu 794 (1) của Luật trọng tài.

Trọng tài viên có thể thẩm tra các nhân chứng và chuyên gia đã tự nguyện có mặt, nhưng không có quyền điều chỉnh việc tuyên thệ của nhân chứng và chuyên gia theo Điều 795 của Luật trọng tài. Nếu nhân chứng hay chuyên gia không tự nguyện có mặt tại phiên xử trọng tài, thì các bên có thể đề nghị Toà án  trong thẩm quyền của mình tiến hành thẩm vấn nhân chứng và đương sự theo quy định tại Điều 796(1) của luật trọng tài.  Toà án đã ra lệnh triệu tập nhân chứng có thể áp dụng hình phạt với việc không có mặt tại phiên toà mà không có lý do chính đáng hình phạt hành chính không quá 100.000 yên, hoặc tạm giữ hành chính theo Điều 193, hoặc tạm giam người này theo Điều 194 của Bộ luật Tố tụng Dân sự trong trường hợp nhân chứng từ chối giám định hoặc cung cấp chứng cứ theo Điều 796(2) của Luật trọng tài.

Đối với trường hợp chuyên gia, Toà án có thể đề nghị mức hình phạt vắng mặt tại phiên toà mà không có lý do chính đáng mức phạt hành chính không quá 100,000 yên, hoặc tạm giam hình sự theo quy định tại điều 193 của Bộ luật Tố tụng Dân sự trong trường hợp chuyên gia từ chối giám định hoặc cung cấp chứng cứ.

Nếu trọng tài có đủ quyền hạn theo quy định tại Điều 797 của Luật trọng tài, trọng tài viên có thể tiếp tục thủ tục trọng tài và tuyên quyết định trọng tài, kể cả trong trường hợp các bên lấy cớ rằng thủ tục trọng tài không nên được chấp nhận, hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu, hoặc thoả thuận trọng tài không mô tả rõ ràng về tranh chấp, hoặc trọng tài viên không đủ thẩm quyền v.v…

Trọng tài viên có thể quyết định những vấn đề khác liên quan đến thủ tục trọng tài theo ý mình theo quy định tại Điều 794(2) của luật trọng tài.

Phí trọng tài: Không có quy định pháp luật nào điều chỉnh về phí trọng tài và điều này phụ thuộc vào thoả thuận giữa trọng tài viên và các bên trong trường hợp trọng tài vụ việc, và trong Quy chế trọng tài, đối với trọng tài thiết chế. Thậm chí trong trường hợp phí trọng tài quá cao đi nữa, thì toà án Nhật bản cũng không có quyền can thiệp bởi lẽ không có quy định nào điều chỉnh về việc này.

Đại diện của các bên:  Mặc dù pháp luật không quy định đòi hỏi các bên cần có Luật sư của LVN Group đại diện tại phiên toà, tuy vậy, mỗi bên vẫn có thể chỉ định một Luật sư của LVN Group đại diện cho mình. Thậm chí cả Luật sư của LVN Group nước ngoài cũng có thể được chỉ định theo Điều 58-2 của Luật về các biện pháp đặc biệt liên quan đến các vấn đề pháp lý trong kinh doanh áp dụng với Luật sư của LVN Group nước ngoài.

Theo quy định tại Điều 800 của Luật trọng tài, một quyết định trọng tài có hiệu lực pháp luật như quyết định của Toà án đối với các bên. Điều 802 quy định rằng quyết định trọng tài có thể được Toà án Nhật bản cưỡng chế thi hành theo thủ tục thi hành án, tương tự như thủ tục thi hành đối với các quyết định của Toà án.

Tóm lại, cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế – thương mại tại Nhật Bản, ngoài việc chịu ảnh hưởng của Hiến pháp và hệ thống pháp luật Mỹ và Tây Âu từ sau Thế chiến II, vẫn có nhiều nét tương đồng với Việt Nam, do chịu ảnh hưởng của truyền thống văn hoá Á Đông với tư tưởng đạo Khổng từ hàng nghìn năm trước đây. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, việc tiếp cận và du nhập nền pháp lý dân chủ hoá của phương Tây là tất yếu và cần thiết. Tuy nhiên, những nét đặc thù của khoa học pháp lý Á Đông, thể hiện đậm nét trong chế định giải quyết tranh chấp ngoài Toà án của Nhật Bản vẫn nên được quan tâm nghiên cứu trong quá trình hoàn thiện thể chế trọng tài, hoà giải của Việt Nam.

8. Hoà giải tư (ngoài Toà án) trong tranh chấp thương mại ở Nhật Bản

Hoà giải tư (ngoài Toà án) chia thành hoà giải theo vụ việc và hoà giải thiết chế. Việc giải quyết tranh chấp thông qua hoà giải tư có hiệu lực như một hợp đồng theo Điều 696 của Bộ Luật Dân sự. Để kết quả hoà giải tư này có hiệu lực như một bản án, nó phải được gửi đến Toà Giản lược để ghi vào Biên bản của Toà án và bằng cách đó, thoả thuận hoà giải sẽ có hiệu lực thi hành. Để làm cho những quyết định hoà giải này có hiệu lực quốc tế, nhiều khi nó được chuyển tải thành quyết định trọng tài tuỳ thuộc vào điều khoản giải quyết tranh chấp. Hoà giải vụ việc không được coi là biện pháp giải quyết tranh chấp phù hợp tại Nhật bản bởi lẽ các bên không dễ dàng tìm được hoà giải viên phù hợp đề tiến hành một việc hoà giải có hiệu quả.

Chủ yếu do yếu tố bao trùm của thực tiễn pháp lý, bao gồm cả giải quyết tranh chấp do các Luật sư của LVN Group tiến hành theo Điều 72 của luật về Luật sư của LVN Group,  các thiết chế tư giải quyết tranh chấp ngoài Toà án không được phát triển tại Nhật. Ngoại lệ chỉ có Công ty vận tải biển, và Hiệp hội trọng tài Nhật bản. Cả hai thiết chế này có chức năng giải quyết các tranh chấp thương mại, và cho đến giờ vẫn không được coi là đất của Luật sư của LVN Group.  Vì vậy, trung tâm trọng tài của hội luật gia mới đây cũng đã được các Luật sư của LVN Group thành lập để mở rộng phạm vi giải quyết tranh chấp ngoài Toà án nhằm tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của công dân.

– Các thiết chế hoà giải:

Công ty vận tải biển (JSE), và Hiệp hội trọng tài Nhật bản (JCAA) cung cấp không chỉ dịch vụ trọng tài, mà còn dịch vụ cần thiết để  điều hành hoà giải,  các tranh chấp trong nước và quốc tế theo quy chế về hoà giải. Theo quy chế JSSE và JCAA, các bên có thể chỉ định các hoà giải viên theo thoả thuận giữa họ, còn JSE và JCAA có thể chỉ định hoà giải viên nếu các bên đề nghị như vậy hoặc trong trường hợp các bên không  tự  thoả thuận được.

Nhiệm vụ của hoà giải viên cũng như  ảnh hưởng pháp lý của việc hoà giải cũng tương tự như trường hợp hoà giải vụ việc ngoại trừ việc hoà giải thiết chế được điều chỉnh bởi quy chế riêng của tổ chức mình. JSE cung cấp dịch vụ hoà giải, độc lập với dịch vụ trọng tài. Đó là Quy chế hoà giải năm 1992 của JSE. Quá trình tiến hành hoà giải không nhất thiết phải được tiến hành sau khi trọng tài hay Toà án đã thụ lý vụ án, nhằm mục địch làm cho quá trình này tiến hành hiệu quả  theo quy định tại Điều 19 của Quy chế hoà giải. Điều 22 của Quy chế thiết kế tương tự như Điều 20 của Quy chế hoà giải của Uỷ ban Thương mại quốc tế, cấm các bên dựa vào/ hoặc chia sẻ những chứng cứ có được trong giai đoạn hoà giải tại trọng tài hay Toà án, bất kể việc quá trình tố tụng này liên quan đến quá trình hoà giải.

Theo quy định tại Điều 16 của Quy chế, thoả thuận giải quyết tranh chấp có thể thiết kế thành quyết định trọng tài nhằm mục đích làm cho thoả thuận này có tính thi hành (kể cả ở nước ngoài). Như vậy, sau khi đã đạt được thoả thuận hoà giải, các bên tiến hành thủ tục trọng tài  bằng cách chỉ định hoà giải viên với tư cách là trọng tài viên, và trọng tài viên này sẽ tuyên bố quyết định trọng tài dựa trên các điều khoản đã có của thoả thuận hoà giải. Tuy nhiên, thủ tục hoà giải này không được sử dụng nhiều lắm bởi lẽ nó không được công chúng biết đến nhiều.  Một lý do nữa là trọng tài JSE có thể tiến hành hoà giải vào bất kỳ thời điểm nào theo quy định tại Điều 28 của Quy chế trọng tài, và do hầu hết các vụ tranh chấp giải quyết bằng phương thức trọng tài đều thành công.

JCAA có Quy chế hoà giải thương mại lâu đời, với vẻn vẹn chỉ 05 điều, và Quy chế này hầu như không được sử dụng.  Điều này không chỉ bởi lẽ chính sách chủ yếu của JCAA  là thiên về phát triển trọng tài, mà còn bởi lẽ việc hoà giải thông thường được tiến hành trong quá trình giải quyết bằng trọng tài, có sự nhất trí của các bên theo quy định tại Điều 39 của Quy chế trọng tài

Thực tế này đã được các nhà hoạt động thực tiễn của hệ thống pháp luật chung đặt câu hỏi, đặc biệt là khi đề cập đến vấn đề nền tảng của hệ thống tư pháp. Một số học  giả cho rằng, mặc dù  Quy chế JCAA không có điều khoản quy định về những bảo đảm nhất định cho công lý, vẫn có thể hiểu rằng những cuộc gặp cá nhân (ex parte) cho việc hoà giải thực tế (de facto) cần phải được tiến hành trên cơ sở có sự đồng ý của cả hai bên. Tuy nhiên những Luật sư của LVN Group hành nghề của Nhật bản ngày càng thận trọng hơn với nỗ lực giải quyết tranh  chấp – nhất là khi một hay hai bên tranh chấp đều từ nước có hệ thống pháp luật án lệ.  Cũng rất thú vị rằng, mặt khác, nhiều Luật sư của LVN Group hành nghề nước ngoài chấp nhận cơ chế hoà giải của  trọng tài JCAA như một phương thức giải quyết tranh chấp ngoài toà án. Tuy nhiên, nhiều học giả Nhật cũng rất băn khoăn về  tác động của yếu tố văn hoá tới hiệu quả của phương thức hoà giải. Rõ ràng rằng không có một quan niệm và nhận thức chung về giá trị văn hoá, thì rất khó đạt được thoả thuận hay hoà giải. Vì vậy, việc trang bị kiến thức và năng lực hoà giải cho các hoà giải viên là rất quan trọng, đặc biệt là khả năng nhận thức và  hài hoà giao tiếp trong hoàn cảnh khác biệt về văn hoá. Và như vậy, thông qua thực tiễn công tác, những Luật sư của LVN Group hay các nhà kinh doanh sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành những quy phạm và thủ tục có tính chất công nhận và áp dụng chung cho nhiều nền văn hoá, xã hội.

– Những mặt ưu và khuyết của hình thức giải quyết tranh chấp bằng phương thức hoà giải ngoài Toà án:

Giải quyết tranh chấp bằng phương thức hoà giải ngoài Toà án có ưu điểm ở tính chất  đơn giản,  nhanh chóng, bảo đảm bí mật cá nhân và  tiết kiệm chi phí. Hoà giải viên có thể linh hoạt lựa chọn các giải quyết phù hợp và thực tế tuỳ thuộc vào nội dung  của vụ tranh chấp, bởi lẽ hoà giả viên không có nghĩa vụ phải áp dụng bất kỳ một luật nào cho nội dung của vụ tranh chấp cũng như không bắt buộc phải tuân theo  một thủ tục tố tụng nào của quá trình hoà giải.

Tuy nhiên, hoà giải viên lại không thể trông đợi sự hỗ trợ từ Toà án, thậm chí kể cả khi đương sự có liên quan từ chối cung cấp chứng cứ cho hoà giải viên cũng như có mặt với tư cách là nhân chứng.  Thủ tục tố tụng tại Toà án vẫn là cần thiết trong trường hợp các bên trong vụ hoà giải không tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình theo phương thức giải quyết ôn hoà, nếu như nó chưa được chuyển đổi thành dạng quyết định trọng tài.