1 Quy định về đối tượng kháng cáo và kháng nghị trong án hình sự
Hiện nay, BLTTHS 2015 không quy định đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm tại một điều luật nhất định. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 330 BLTTHS 2015 quy định “Quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này.” Căn cứ vào quy định này, có thể thấy được đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm gồm: Quyết định tạm đình chỉ vụ án; Quyết định đình chỉ vụ án; Quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo; Quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và Quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định tại Bộ luật này.
Kháng cáo là hành vi tố tụng sau khi xử sơ thẩm, nếu đương sự không đồng ý với phán quyết của tòa sơ thẩm thì có quyền chống án. Thuật ngữ pháp lý gọi là “kháng cáo”, yêu cầu tòa cấp trên xét xử một lần nữa theo trình tự phúc thẩm.với hình thức là Kháng cáo lên toà phúc thẩm còn Kháng nghị là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc phản đối toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, công bằng, đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định của Tòa án. với 3 hình thức kháng nghị là phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
2 Chủ thể có quyền kháng cáo kháng nghị
Theo điều 331 BLTTHS năm 2015 quy định về người có quyền kháng cao như sau
– Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
– Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.
– Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
– Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
– Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.
Về thẩm quyền kháng nghị đã được quy định rất rõ tại Điều 336 BLTTHS 2015. Theo đó, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị toàn bộ quyết định hoặc bản án sơ thẩm. .
– Đối với Giám đốc thẩm: Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Chánh án Tòa án quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương; Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
– Đối với Tái thẩm: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trungương; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
3 Phạm vi kháng cáo, kháng nghị
* Phạm vi kháng cáo được quy định như sau
– Bản án hoặc quyết định sơ thẩm
– Phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
– Phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
– Phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
– Về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.
*Phạm vi kháng nghị
– Những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
– Trường hợp kháng nghị Giám đốc thẩm:
+Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
+ Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;
+ Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
– Trường hợp Tái thẩm:
+ Có căn cứ chứng minh lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng sự thật;
+ Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án;
+ Vật chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật;
+ Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án.
4 Về thủ tục kháng cáo kháng nghị
Theo điều 332 BLTTHS năm 2015 quy định về thủ tục kháng cáo như sau : Người kháng cáo phải gửi đơn kháng cáo đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm.Nếu Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam, Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo, nhận đơn kháng cáo và chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định bị kháng cáo.Người kháng cáo có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm về việc kháng cáo. Tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.Tòa án cấp phúc thẩm đã lập biên bản về việc kháng cáo hoặc nhận được đơn kháng cáo thì phải gửi biên bản hoặc đơn kháng cáo cho Tòa án cấp sơ thẩm để thực hiện theo quy định chung.Đơn kháng cáo có các nội dung chính: Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo; Họ tên, địa chỉ của người kháng cáo; Lý do và yêu cầu của người kháng cáo; Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo
Theo quy định điều 336 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì kháng nghị phúc thẩm được thực hiện dưới hình thức quyết định kháng nghị. Nội dung chính của quyết định kháng nghị gồm: ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số của quyết định kháng nghị; tên của viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị; kháng nghị đối với toàn bộ hay một phần bản án, quyết định sơ thẩm; lí do, căn cứ kháng nghị và yêu cầu của viện kiểm sát; họ tên, chức vụ của người kí quyết định kháng nghị ( Khoản 2 Điều 336 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Viện kiểm sát đã ra kháng nghị phải gửi quyết định kháng nghị kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật bổ sung (nếu có) cho toà án đã xét xử sơ thẩm
5 Về thời hạn kháng cáo , kháng nghị
Theo quy định tại điều 333 BLTTHS năm 2015 quy định Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Thời hạn kháng cáo đối với quyết định sơ thẩm là 07 ngày kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định.Trường hợp quá hạn thì phải do Hội đồng 3 thẩm phán xem xét . Ngày kháng cáo được xác định như sau
-Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua dịch vụ bưu chính thì ngày kháng cáo là ngày theo dấu bưu chính nơi gửi;
– Trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ thì ngày kháng cáo là ngày Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ nhận được đơn. Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải ghi rõ ngày nhận đơn và ký xác nhận vào đơn;
– Trường hợp người kháng cáo nộp đơn kháng cáo tại Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án nhận đơn. Trường hợp người kháng cáo trình bày trực tiếp với Tòa án thì ngày kháng cáo là ngày Tòa án lập biên bản về việc kháng cáo.
Thời hạn kháng nghị được quy định tại điều 337 BLTTHS năm 2015 quy định Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án.Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định.
– Đối với Giám đốc thẩm: Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
– Đối với Tái thẩm: Theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được thực hiện trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 của Bộ luật hình sự và thời hạn kháng nghị không được quá 01 năm kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện.Theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được thực hiện cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Nói chung, thời hạn kháng cáo do luật định là thời hạn bắt buộc đốì với bị cáo và đương sự, nếu quá thời hạn đó mà bị cáo và các đương sự không kháng cáo thì bản án hoặc quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, nếu có lý do chính đáng thì kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận. Toà án cấp phúc thẩm xét lý do kháng cáo quá hạn và ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận. Thực tiễn xét xử, Toà án cấp phúc thẩm chỉ ra quyết định không chấp nhận kháng cáo quá hạn còn trường hợp chấp nhận, Toà án cấp phúc thẩm triệu tập phiên toà để xét xử phúc thẩm chứ không ra quyết định chấp nhận kháng cáo quá hạn trước khi đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Mọi vướng mắc về các vấn đề pháp lý liên quan đến bài viết , Hãy gọi ngay: 1900.0191 để đượcLuật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group
>> Xem thêm: Bản cáo trạng là gì ? Khái niệm về bản cáo trạng ?
Công Ty Luật LVN Group xin cảm ơn!!