Câu hỏi: Khẳng định sau đây đúng hay sai, giải thích tại sao?: “Trong mọi trường hợp người nào bịa đặt những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác đều phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vu khống ?”
Đáp án:
– Khẳng định sai. Bởi vì:
Căn cứ Khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 2015, bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi ích hợp pháp của người khác thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vu khống; và người thực hiện hành vi này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
Như vậy, chỉ người nào bịa đặt những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác thì mổỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vu khốhg còn chưa ở mức độ nghiêm trọng thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Luật LVN Group phân tích chi tiết quy định pháp lý trên như sau:
Trước tiên phải xác định, không phải trường hợp nào khi thực hiện hành vi bịa đặt những điều biết rõ là sai sự thật để nhằm mục đích xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác cũng đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật hình sự năm 2015, Luật sửa đổi bổ sung năm 2017. Mà tùy vào mức độ vi phạm của hành vi mà người thực hiện hành vi sẽ có những trách nhiệm như sau:
1. Trách nhiệm hình sự
Vu khống sẽ được hiểu là hành vi của một cá nhân, mặc dù biết rõ những thông tin đó là trái sự thật những vẫn bịa đặt ra những thông tin sai sự thật đó và lan truyền những thông tin này với mục đích xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm hoặc gây ra những thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay Bộ luật hình sự năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội vu khống, cụ thể khi một người thực hiện hành vi thỏa mãn các yếu tố dưới đây thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vu khống.
- Chủ thể của tội vu khống
Bất cứ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự khi thực hiện này vi vu khống đều được xác định là chủ thể của tội vu khống
- Khách thể của tội vu khống
Hành vi vu khống là hành vi xâm hại trực tiếp đến danh dự, nhân phẩm và các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân (đối tượng chính của hành vi vu khống)
- Mặt khách quan của tội vu khống
Người thực hiện tội phạm có những hành vi sau đây:
– Bịa đặt những thông tin mà bản thân biết rõ đó là những thông tin sai sự thật hoặc không bịa đặt thông tin nhưng biết rõ thông tin đó là sai sự thật nhưng vẫn lan truyền những thông tin sai sự thật đó để nhằm mục đích xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người khác hoặc hành vi này gây ra những thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Việc lan truyền các thông tin bịa đặt này có thể được thực hiện thông qua việc người thực hiện hành sử dụng lời nói hoặc có thể sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng khác như mạng xã hội, nhắn tin để lan truyền thông tin qua điện thoại,…
– Người thực hiện tội phạm có các hành vi bịa đặt về việc một người khác phạm tội và tố cáo người đó với có quan có thẩm quyền.
- Mặt khách thể của tội vu khống
Người thực hiện tội phạm thực hiện tội phạm với lỗi cố ý
Khi thỏa mãn 4 yếu tố cấu thành tội vu khống đã được nêu trên thì người thực hiện hành vi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm của mình với mức hình phạt như sau:
– Người thực hiện hành vi phạm tội sẽ bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm;
– Nếu người thực hiện hành vi phạm tội thuộc những trường hợp dưới đây thì bị truy cứu trách nhiệm với mức hình phạt là phạt tù từ 01 năm đến 03 năm;
+ Có tổ chức;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
+ Đối với hai người trở lên;
+ Thực hiện hành vi phạm tội đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
+ Thực hiện hành vi với người thi hành công vụ;
+ Người thực hiện hành vi phạm tội có sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện hành vi phạm tội của mình;
+ Việc thực hành vi phạm tội gây ra hậu quả làm nạn nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân từ 31% đến 60%;
+ Người thực hiện tội phạm vu khống cho nạn nhân phạm các tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
– Nếu người thực hiện hành vi phạm tội thuộc những trường hợp dưới đây thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức hình phạt tù từ 03 đến 07 năm;
+ Người thực hiện tội phạm thực hiện hành vi phạm tội vì động cơ đê hèn;
+ Người thực hiện hành vi phạm tội gây ra hậu quả làm nạn nhân bị rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân từ 61% trở lên;
+ Vì hành vi phạm tội của mình dẫn đến nạn nhân tự sát.
Ngoài những trách nhiệm hình sự đã được nêu ở trên thì người thực hiện hành vi phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm một công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
2. Xử phạt vi phạm hành chính
Trường hợp hành vi không đủ các yếu tố cấu thành tội vu khống như đã được nêu ở trên nhưng việc một người có các hành vi gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của người khác thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính căn cứ theo quy định tại điểm a, Khoản 3 Điều 7 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP, cụ thể người thực hiện hành vi này sẽ bị phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 3 triệu đồng, ngoài ra sẽ phải buộc thực hiện việc cải chính những thông tin không đúng sự thật, những thông tin sai sự thật, những thông tin gây nhầm lẫn.
Với trường hợp người thực hiện hành vi thông qua mạng xã hội để chia sẻ những thông tin giả tạo, những thông tin không đúng sự thật, thông tin bịa đặt, xuyên tạc, vu khống để nhằm mục đích xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của một cá nhân hay của một tổ chức nào đó thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng và phải buộc gỡ bỏ những thông tin sai sự thật đã đăng theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP.
3. Bồi thường thiệt hại về hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm
Khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 đã có quy định người nào có những hành vi xâm phạm đến tính mạng, xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản cũng như là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà những hành vi này gây ra thiệt hại thì người thực hiện hành vi sẽ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Do đó người thực hiện các hành vi bịa đặt, lan truyền những thông tin sai sự thật để nhằm mục đích xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì ngoài phải chịu các trách nhiệm hành chính hoặc hình sự nêu trên thì người thực hiện hành vi còn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại với những thiệt hại do mình gây ra. Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về mức bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại, cụ thể như sau:
– Bồi thường các chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục những thiệt hại đã xảy ra;
– Bồi thường cho những thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại;
– Những thiệt hại khác do luật quy định;
– Ngoài ra người gây ra thiệt hại cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu. Mức bồi thường tổn thất về tinh thần này sẽ do các bên (bên thiệt hại và bên gây thiệt hại). Trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau về mức bồi thường thiệt hại thì pháp luật quy định mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm sẽ không được quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước đã quy định.
Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã biên soạn, trường hợp Quý khách còn bất cứ vướng mắc gì về vấn đề đã nêu ở trên, Quý khách hàng vui lòng liên hệ trực tiếp với bộ phận Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 để được hỗ trợ trực tiếp. Rất mong nhận được sự hợp tác từ Quý khách hàng. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!