1. Khái quát về Khu vực Kinh tế châu Âu (EEA)
Các Khu vực Kinh tế châu Âu (EEA), bao gồm các quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu (EU) và ba nước thuộc Hiệp hội châu Âu thương mại tự do (EFTA) (Iceland, Liechtenstein và Na Uy; trừ Thụy Sĩ).
Hiệp định về EEA có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1994. Hiệp định này nhằm tăng cường quan hệ kinh tế và thương mại giữa các bên ký kết và chủ yếu quan tâm đến bốn trụ cột cơ bản của thị trường nội bộ, đó là: sự di chuyển tự do của hàng hóa, con người và dịch vụ. và vốn. Sự sẵn có của dữ liệu thống kê có thể so sánh được coi là có liên quan đến bốn quyền tự do và do đó được bao gồm trong thỏa thuận.
Nó là một thỏa ước giữa các nước hội viên của Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (European Free Trade Association, EFTA), Cộng đồng châu Âu (EC), và mọi nước thành viên của Liên minh châu Âu (EU). Nó cho phép các nước hội viên của Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu tham gia vào thị trường chung châu Âu mà không gia nhập Liên minh châu Âu.
Việc mở rộng EU có tác động trực tiếp đến Hiệp định EEA và EEA mở rộng hiện bao gồm 30 quốc gia.
2. Bàn luận về Khu vực Kinh tế châu Âu (EEA)
Như đã nói ở mục 1, Hiệp định về Khu vực Kinh tế châu Âu (EEA) có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1994. Hiệp định này nhằm tăng cường quan hệ kinh tế và thương mại giữa các bên ký kết và chủ yếu quan tâm đến bốn trụ cột cơ bản của thị trường nội bộ.
Cần nhớ lại rằng Hiệp định EEA nhìn chung đã mở rộng các quy định về thị trường nội địa của EU sang các nước EFTA EEA (Iceland, Liechtenstein và Na Uy). Trong lĩnh vực thương mại hàng hoá, đương nhiên EEA có thể xây dựng trên chế độ buôn bán miễn thuế đã đạt được theo các hiệp định thương mại tự do nói trên.
Đối với hàng hoá công nghiệp, các điều khoản của Hiệp định EEA áp dụng cho các sản phẩm thuộc Chương 25 đến 97 của Hệ thống HS, trừ hoá chất casein và một số họp chất albumins và dextrins. Các điều khoản của Hiệp định này cũng áp dụng cho nông sản chế biến nhưng phải tuân theo một số quy định đặc biệt đề ra trong Nghị định thư số 3. Đối với nông sản, người ta đã đồng ý sẽ xem xét những vấn đề cụ thể nảy sinh và định kỳ rà soát lại các điều kiện thương mại hướng tới mục tiêu dần dần tự do hoá. Ngoài ra, câc quy định chung về thú ý và kiểm dịch thực vật cũng được đưa vào trong Hiệp định.
Nghi định thư số 9 của Hiệp định EEA đưa ra các điều khoản áp dụng cho buôn bán cá và các loại hải sản khác. Các nước tham gia EFTA EEA sẽ bỏ thuế nhập khẩu và những hạn chế định lượng nhập khẩu đối với tất cả các mặt hàng này trong khi cam kết của EU không triệt để như vậy.
Buôn bán các sản phẩm than và thép được đề cập đến trong Nghị định thư số 14 với quy định về loại bỏ thuế quan và các hạn ché định lượng. Buôn bán các sản phẩm này phải tuân thủ các hiệp định giữa các nước thành viên EFT A EEA và thành viên của ECSC.
Các nước hội viên của Khu vực kinh tế châu Âu không phải là hội viên của Liên minh châu Âu (Iceland, Liechtenstein và Na Uy) đồng ý thi hành pháp luật tương tự như của Liên minh châu Âu trong các lãnh vực chính sách xã hội, bảo vệ người tiêu dùng, môi trường thiên nhiên, luật công ty và thống kê. Một số lãnh vực trên vốn đã được thi hành trong Cộng đồng châu Âu (“trụ cột” thứ nhất của Liên minh châu Âu).
Các nước nói trên không có đại diện trong các cơ quan của Liên minh châu Âu, chẳng hạn như Quốc hội châu Âu hoặc Ủy ban châu Âu. Tháng 2 năm 2001, thủ tướng Na Uy Jens Stoltenberg mô tả tình trạng này là một “fax democracy” (dân chủ sao chép), với việc Na Uy chờ đợi luật pháp mới nhất được Ủy ban châu Âu đánh fax tới.
Về các cơ quan của Khu vực Kinh tế châu Âu (EEA):
Một Ủy ban liên hợp gồm các nước trong Khu vực kinh tế châu Âu, các nước thuộc Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu với Ủy ban châu Âu (đại diện Liên minh châu Âu) có nhiệm vụ mở rộng các luật liên quan của Liên minh châu Âu tới các nước hội viên không thuộc Liên minh châu Âu. Một hội đồng Khu vực kinh tế châu Âu sẽ họp mỗi năm 2 lần để điều khiển toàn bộ quan hệ giữa các nước hội viên của Khu vực kinh tế châu Âu.
Thay cho các cơ quan toàn Khu vực kinh tế châu Âu (pan-EEA), các hoạt động của Khu vực kinh tế này được điều chỉnh bởi Cơ quan giám sát của Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA Surveillance Authority) và Tòa án của Hiệp hội này (EFTA Court), song song với công việc của Ủy ban châu Âu và Tòa án Cộng đồng châu Âu (European Court of Justice).
3. Hội viên của Khu vực Kinh tế châu Âu (EEA)
Các bên ký kết Thỏa ước Khu vực kinh tế châu Âu là 3 trong số 4 nước thuộc Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu —Iceland, Liechtenstein và Na Uy (ngoại trừ quần đảo Svalbard)—và 27 nước hội viên Liên minh châu Âu cùng Cộng đồng châu Âu.
Thụy Sĩ không thuộc Khu vực kinh tế châu Âu. Một cuộc trưng cầu ý dân (được Hiến pháp Thụy Sĩ cho phép) đã được tổ chức và đã bác bỏ đề nghị tham gia tổ chức này.[3] Thụy Sĩ liên kết với Liên minh châu Âu bởi thỏa hiệp song phương Thụy Sĩ – Liên minh châu Âu, với nội dung khác biệt với thỏa hiệp của Khu vực kinh tế châu Âu.
Áo, Phần Lan và Thụy Điển gia nhập Khu vực kinh tế châu Âu năm 1994, nhưng Thỏa hiệp Khu vực kinh tế châu Âu được thay thế bằng chức hội viên Liên minh châu Âu năm 1995.
4. Quyền và nghĩa vụ của Khu vực Kinh tế châu Âu (EEA)
Khu vực kinh tế châu Âu dựa trên cùng “4 quyền tự do” như Liên minh châu Âu: di chuyển tự do hàng hóa, người, dịch vụ và vốn trong phạm vi các nước thuộc Khu vực kinh tế châu Âu. Như vậy các nước thuộc Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu nay là thành phần của Khu vực kinh tế châu Âu, được hưởng sự tự do mậu dịch với Liên minh châu Âu.
Là bên đối tác, các nước này phải chấp nhận thực hiện phần của Luật Liên minh châu Âu. Các nước này có ít ảnh hưởng trên các quá trình đưa ra quyết định ở Bruxelles.
Các nước hội viên Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu là thành phần của Khu vực kinh tế châu Âu không phải mang gánh nặng tài chính liên quan tới chức hội viên Liên minh châu Âu, dù rằng các nước này có đóng góp tài chính vào thị trường chung châu Âu. Sau khi Liên minh châu Âu/Khu vực kinh tế châu Âu mở rộng năm 2004, có sự tăng trưởng gấp 10 lần trong đóng góp tài chính của các nước Khu vực kinh tế châu Âu, đặc biệt là Na Uy, vào mức độ cố kết kinh tế và xã hội trong thị trường nội bộ (1.167 triệu euro trong 5 năm).
Các nước trong Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu không được nhận bất cứ tiền tài trợ nào của Liên minh châu Âu và của các quỹ phát triển.
5. Liên minh Châu Âu (EU)
Các Liên minh châu Âu ( EU ) là một liên minh chính trị và kinh tế của 27 quốc gia thành viên được đặt chủ yếu ở châu Âu. Liên minh có tổng diện tích là 4.233.255,3 km 2 (1.634.469,0 sq mi) và tổng dân số ước tính khoảng 447 triệu người. Một thị trường nội bộ đơn lẻ đã được thiết lập thông qua một hệ thống luật tiêu chuẩn áp dụng ở tất cả các quốc gia thành viên trong những vấn đề đó và chỉ những vấn đề đó, khi các quốc gia đã đồng ý hoạt động như một. Các chính sách của EU nhằm đảm bảo sự di chuyển tự do của con người, hàng hóa, dịch vụ và vốn trong thị trường nội địa; ban hành pháp luật về tư pháp và nội vụ; và duy trì các chính sách chung về thương mại, nông nghiệp, thủy sản và phát triển khu vực . Việc kiểm soát hộ chiếu đã bị bãi bỏ đối với việc đi lại trong Khu vực Schengen. Một liên minh tiền tệ được thành lập vào năm 1999, có hiệu lực đầy đủ vào năm 2002, và bao gồm 19 quốc gia thành viên sử dụng đồng tiền chung euro . EU thường được mô tả như một thực thể chính trị sui generis (không có tiền lệ hoặc so sánh) với các đặc điểm của một liên bang hoặc liên minh.
Liên minh và quyền công dân EU được thành lập khi Hiệp ước Maastricht có hiệu lực vào năm 1993. EU bắt nguồn từ Cộng đồng Than và Thép Châu Âu (ECSC) và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC), được thành lập tương ứng bởi Hiệp ước Paris 1951 và Hiệp ước Rome 1957 . Các quốc gia thành viên ban đầu của những gì được gọi là Cộng đồng Châu Âu là Sáu bên : Bỉ, Pháp, Ý, Luxembourg, Hà Lan và Tây Đức . Các cộng đồng và những người kế thừa của họ đã phát triển về quy mô bởi sự gia nhập của các quốc gia thành viên mớivà nắm quyền bằng cách bổ sung các lĩnh vực chính sách vào tài khoản của họ. Vương quốc Anh trở thành quốc gia thành viên đầu tiên rời EU vào ngày 31 tháng 1 năm 2020. Trước đó, ba vùng lãnh thổ của các quốc gia thành viên đã rời EU hoặc tiền thân của nó. Bản sửa đổi lớn mới nhất đối với cơ sở hiến pháp của EU, Hiệp ước Lisbon, có hiệu lực vào năm 2009.
Chứa khoảng 5,8% dân số thế giới vào năm 2020, EU đã tạo ra tổng sản phẩm quốc nội (GDP) danh nghĩa khoảng 17,1 nghìn tỷ USD vào năm 2021, [6] chiếm khoảng 18% GDP danh nghĩa toàn cầu. Ngoài ra, tất cả các nước EU đều có Chỉ số Phát triển Con người rất cao theo Chương trình Phát triển Liên hợp quốc. Năm 2012, EU đã được trao giải Nobel Hòa bình. Thông qua Chính sách Đối ngoại và An ninh Chung, công đoàn đã phát triển một vai trò trongđối ngoại và quốc phòng . Nó duy trì các phái bộ ngoại giao thường trực trên khắp thế giới và đại diện cho mình tại Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới , G7 và G20 . Do ảnh hưởng toàn cầu của nó, Liên minh châu Âu đã được một số học giả mô tả như một siêu cường mới nổi .
Từ đầu những năm 2010, sự gắn kết của Liên minh châu Âu đã bị thử thách bởi một số vấn đề, bao gồm cuộc khủng hoảng nợ ở một số nước thuộc Khu vực đồng tiền chung châu Âu, gia tăng di cư từ châu Phi và châu Á, và việc Vương quốc Anh rút khỏi EU. Một cuộc trưng cầu dân ý ở Anh về tư cách thành viên của Liên minh Châu Âu đã được tổ chức vào năm 2016, với 51,9% người tham gia bỏ phiếu rời đi. Vương quốc Anh chính thức thông báo cho Hội đồng Châu Âu về quyết định rời khỏi EU vào ngày 29 tháng 3 năm 2017, bắt đầu thủ tục chính thức rút khỏi EU; Sau khi mở rộng quy trình, Vương quốc Anh rời Liên minh Châu Âu vào ngày 31 tháng 1 năm 2020, mặc dù hầu hết các lĩnh vực luật của EU tiếp tục áp dụng cho Vương quốc Anh trong một giai đoạn chuyển tiếp kéo dài đến 23:00 GMT ngày 31 tháng 12 năm 2020.
Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).