1. Khái quát chung

Hoạt động kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng và hoạt động kiểm sát KNHT các VAHS nói chung được điều chỉnh bởi BLTTHS, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ có liên quan đến công tác kiểm sát KNHT của ngành Kiểm sát nhân dân. Ngoài ra, để đảm bảo hiệu quả của công tác này, tùy theo điều kiện đặc thù của từng địa phương mà các cơ quan có thẩm quyền ở từng địa phương có thể ban hành những văn bản liên ngành thống nhất về quan hệ phối hợp trong việc thực hiện hoạt động này trên thực tiễn. 

2. Trách nhiệm và phân cấp thẩm quyền kiểm sát khám nghiệm hiện trường vụ án vi phạm quy định về tham gia GTĐB

Theo quy định tại Điều 20 BLTTHS, trong quá trình giải quyết VAHS nói chung và vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, cụ thể: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
Theo đó, VKSND có trách nhiệm kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật trong KNHT, góp phần bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
Căn cứ vào quy định của BLTTHS hiện hành thì thẩm quyền kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB của VKSND các cấp được xác định theo thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và phân cấp thẩm quyền theo lãnh thổ được quy định trong BLTTHS. Cụ thể, theo quy định tại Điều 239 và Điều 268, 269, Điều 272 BLTTHS hiện hành, thẩm quyền kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB của VKSND các cấp được xác định như sau:
VKSND cấp huyện có thẩm quyền kiểm sát KNHT những vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB mà tội phạm trong vụ án là tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng (tương ứng với cấu thành tội phạm được quy định tại Khoản 1, 2,3 Điều 260 BLHS hiện hành), trừ những trường hợp thuộc thẩm quyền của VKSND cấp tỉnh. Đó là các trường hợp cụ thể sau: Vụ án có bị cáo, bị hại, đương sự ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; vụ án hình sự có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, KSV, ĐTV, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người. Ngoài ra, thẩm quyền kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về
TGGTĐB của các VKS quân sự còn được xác định theo các quy định của BLTTHS liên quan đến thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra của VKS quân sự các cấp theo quy định tại Điều 239, 272 BLTTHS hiện hành. Cụ thể, thẩm quyền kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB được xác định căn cứ địa bàn thiết quân luật nơi xảy ra tội phạm và trong trường hợp vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân; vụ án mà liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.

3. Nhiệm vụ, quyền hạn của KSV khi kiểm sát khám nghiệm hiện trường các vụ án Vi phạm quy định về tham gia GTĐB

Là một hoạt động nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB ở giai đoạn khởi tố, điều tra, VKSND các cấp thực hiện việc kiểm sát KNHT thông qua hoạt động nghiệp vụ của KSV được phân công.
Theo quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 42 BLTTHS hiện hành, khi được phân công nhiệm vụ, KSV phải “trực tiếp kiểm sát khám nghiệm hiện trường”. Quy định này được hiểu là, KSV nào được sự phân công của lãnh đạo VKS thì phải tự mình thực hiện các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định pháp luật mà không được ủy quyền cho người khác làm thay.
Để đảm bảo hành lang pháp lý đảm bảo sự tôn trọng của các chủ thế khác đối với hoạt động kiểm sát KNHT của KSV, đồng thời đảm bảo trách nhiệm của KSV trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, đảm bảo hoạt động KNHT được tiến hành một cách kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật, pháp luật quy định KSV có những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong KNHT nói chung và trong KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng. Những nhiệm vụ, quyền hạn này được xác định trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND các cấp khi giải quyết vụ án hình sự theo thẩm quyền.
Căn cứ quy định tại Điều 166 BLTTHS và Điều 4, Điều 15 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự, khi được phân công kiểm sát KNHT các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB, KSV có những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:

4. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc KNHT về thẩm quyền, trình tự, thủ tục KNHT

Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này, KSV tiến hành kiểm sát tư cách pháp lý của các chủ thể tiến hành KNHT trên cơ sở Quyết định thành lập Hội đồng khám nghiệm, bảo đảm những người tham gia KNHT có tư cách pháp lý và đầy đủ thành phần theo quy định của BLTTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong quá trình khám nghiệm hiện trường, KSV phải theo dõi sát các thao tác KNHT của ĐTV và các thành viên của Hội đồng khám nghiệm để yêu cầu thực hiện đúng thủ tục tố tụng, phương pháp khám nghiệm trong việc vẽ sơ đồ, chụp ảnh, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án, những đồ vật mẫu vật tài liệu cần thu giữ, bảo quản nguyên trạng để phục vụ cho việc giám định và sử dụng làm chứng cứ. KSV kiểm tra, đối chiếu giữa sơ đồ hiện trường, biên bản KNHT và các tài liệu liên quan khác so với thực tế hiện trường, diễn biến quá trình KNHT, để bảo đảm chính xác, khách quan, toàn diện và theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, KSV còn kiểm sát tính hợp pháp của các biên bản KNHT về biểu mẫu, các nội dung được ghi nhận trong biên bản KNHT, sơ đồ hiện trường và các biên bản thu giữ, đồ vật tài liệu tại hiện trường, việc ký tên của các chủ thể tham gia KNHT theo yêu cầu tố tụng; kiểm sát tính hợp pháp của việc niêm phong, thu giữ dấu vết, vật chứng tại hiện trường.
– Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng trong quá trình KNHT; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người chứng kiến khi có vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT.
Trong quá trình tiến hành hoạt động KNHT, ngoài các chủ thể là Điều tra viên
– chủ trì khám nghiệm, lực lượng tham gia khám nghiệm thì hoạt động KNHT còn có sự tham gia bắt buộc của người chứng kiến và có thể có sự tham gia của bị can, người bào chữa, bị hại, người làm chứng, người có chuyên môn. Theo đó, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, KSV kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể này trong quá trình khám nghiệm đảm bảo tư cách pháp lý và việc thực hiện quyền và nhiệm vụ của họ tương ứng với quy định pháp luật. Trong trường hợp phát hiện vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT của những người này thì KSV có quyền yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những người tham gia tố tụng có vi phạm trong hoạt động KNHT.
– Yêu cầu CQĐT cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc cần KNHT để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc KNHT khi cần thiết.
– Khi phát hiện việc KNHT có vi phạm pháp luật thì yêu cầu Cơ quan điều tra, thực hiện các hoạt động: Tiến hành hoạt động KNHT đúng pháp luật; Kiểm tra việc điều tra và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; Cung cấp tài liệu liên quan đến hành vi, quyết định tố tụng có vi phạm pháp luật trong việc KNHT.
– Kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm trong KNHT.
– Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra, xử lý nghiêm minh Điều tra viên, Cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT.
– Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT.
– Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc kiểm sát điều tra vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS.
Để đảm bảo việc thực hiện vai trò của VKSND trong việc giải quyết đối với từng vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB cụ thể, ngoài việc thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn thuộc về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nêu trên, trong quá trình kiểm sát KNHT nếu KSV phát hiện những sai, sót của các thành viên tham gia KNHT hoặc những dấu vết, vật chứng quan trọng chưa được phát hiện, thu thập trong quá trình kiểm sát KNHT, KSV căn cứ quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra theo quy định tại Điều 165 BLTTHS hiện hành để thực hiện các hoạt động: Yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều tra thu giữ, niêm phong, bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật hoặc dữ liệu điện tử có liên quan đến vụ việc khám nghiệm; lập biên bản KNHT, vẽ sơ đồ hiện trường theo quy định của pháp luật; Đề ra các yêu cầu cho ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định viên pháp y thu thập, làm rõ các dấu vết thương tích, giải phẫu tử thi để xác định nguyên nhân chết, sơ bộ kết luận về nguyên nhân chết của nạn nhân (nếu có thể) để phục vụ công tác truy nguyên hình sự và truy tìm người phạm tội đối với những vụ án không quả tang; Yêu cầu ĐTV, cán bộ điều tra, người có chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định viên pháp y xác định chính xác phạm vi hiện trường, hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi; mở rộng hiện trường để truy tìm dấu vết và công cụ, phương tiện phạm tội. Phát hiện, mô tả, thu thập đầy đủ, trung thực, khách quan mọi dấu vết liên quan đến tội phạm và người phạm tội tại hiện trường. Trong trường hợp cần thiết, KSV có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc KNHT.

5. Quy định nghiệp vụ của ngành Kiểm sát về kiểm sát KNHT vụ án Vi phạm quy định về tham gia GTĐB

Để thống nhất thực hiện hoạt động kiểm sát KNHT các VAHS nói chung và các vụ án Vi phạm quy định về TGGTĐB nói riêng, Viện trưởng VKSND đã ban hành các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ về công tác kiểm sát KNHT như: Quy chế về công tác kiểm sát KNHT, kiểm sát khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra, việc tiến hành giám định (Ban hành kèm theo Quyết định số 421/QĐ-VKSTC ngày 17/10/2014. Sau đây gọi tắt là Quy chế 421); Quy chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực hiện điều tra và giám định (Ban hành kèm theo Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ngày 02 tháng 5 năm 2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Các văn bản này quy định rõ về các vấn đề về phạm vi, mục đích công tác kiểm sát KNHT; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của KSV khi kiểm sát việc KNHT; việc tiếp nhận, xử lý và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến KNHT; thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT; trách nhiệm của VKS khi kiểm sát việc KNHT; Nhiệm vụ của KSV trước, trong và khi kết thúc KNHT; pháthiện và xử lý vi phạm trong KNHT, cụ thể như sau:
Một là, khi nhận được thông báo của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS phải cử KSV thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT đối với tất cả các vụ việc mà cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến hành khám nghiệm theo quy định của pháp luật.
Đối với các vụ việc phức tạp, các vụ TNGT gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, các vụ án mà người phạm tội là nhân sỹ trí thức, các chức sắc tôn giáo, người có uy tín cao thuộc các dân tộc ít người, các vụ án được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm hoặc các trường hợp khác khi xét thấy cần thiết thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS phải trực tiếp cùng KSV thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT. Trường hợp cần thiết, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKS cấp dưới đề nghị VKS cấp trên phân công KSV cùng tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát việc KNHT.
Hai là, trước khi KNHT, KSV phải chủ động nắm tình hình, yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều tra thông báo nội dung, diễn biến ban đầu của sự việc xảy ra để tham gia ý kiến vào việc chuẩn bị khám nghiệm; chủ động yêu cầu ĐTV,cán bộ Điều tra tiến hành KNHT, bảo đảm đúng quy định pháp luật.
Ba là, trong quá trình KNHT, KSV phải phối hợp với ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên môn để thống nhất nội dung, kế hoạch, trình tự KNHT, bảo đảm khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. KSV kiểm sát việc lấy lời khai những người biết sự việc ngay tại hiện trường, nếu thấy người làm chứng, người bị hại hoặc đối tượng có thể chết hoặc mất khả năng khai báo, KSV phải yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều tra lấy ngay lời khai và ghi âm lời khai của họ.
KSV phải chủ động nắm tình hình về hiện trường qua thông báo của ĐTV, cán bộ điều tra, thông tin do người dân xung quanh khu vực hiện trường cung cấp; hoặc tự mình quan sát và phân tích các yếu tố để đánh giá tình trạng hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi ấy do các yếu tố con người, thời tiết, động vật qua lại hoặc các yếu tố khách quan khác; xác định phạm vi cần khám nghiệm và những loại dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được xem xét, thu giữ để yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều tra thực hiện.
Trong quá trình kiểm sát KNHT, KSV phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm, yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên môn thực hiện đúng trình tự, thủ tục khám nghiệm; vẽ sơ đồ, chụp ảnh, đo đạc và mô tả thực trạng hiện trường theo quy định của pháp luật; yêu cầu biên bản KNHT phải được lập, sơ đồ hiện trường phải được vẽ ngay tại nơi khám nghiệm.KSV phải ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng, cụ thể các tình tiết, đặc điểm, vị trí của dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu quan trọng tại hiện trường để có cơ sở xem xét đối chiếu, kiểm tra với biên bản và sơ đồ KNHT. Trường hợp cần thiết, KSV có thể chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, xem xét tại chỗ dấu vết, đồ vật, tài liệu có liên quan đến tội phạm, lấy lời khai và ghi âm lời khai của người bị hại, người làm chứng và những người biết việc. Các tài liệu này được lưu vào hồ sơ kiểm sát. KSV đề ra yêu cầu khám nghiệm trên cơ sở nghiên cứu cơ chế, quy luật hình thành dấu vết để có thể phát hiện, xác định được loại dấu vết; dấu vết hình thành đúng hay trái với quy luật thông thường, sự mâu thuẫn giữa các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử để kịp thời yêu cầu thu thập đầy đủ; tránh trường hợp làm mất, hư hỏng các dấu vết hoặc làm thay đổi tình trạng hiện trường. Xác định có hay không việc tạo hiện trường giả sau khi gây án. KSV phối hợp với ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên môn phân tích, đánh giá các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ được tại hiện trường để đặt ra các giả thuyết điều tra, định hướng cho việc khám nghiệm, thu giữ dấu vết được đầy đủ, chính xác, phục vụ công tác truy tìm vật chứng, truy bắt người thực hiện hành vi phạm tội.
Nếu thấy việc KNHT chưa đầy đủ, vi phạm quy định tại Điều 201 BLTTHS thì KSV yêu cầu ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên môn bổ sung, khắc phục. Trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì KSV yêu cầu ghi ý kiến của KSV vào biên bản khám nghiệm và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS.
Những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong theo quy định của pháp luật, bảo đảm phục vụ cho việc giám định và sử dụng làm chứng cứ giải quyết vụ án. KSV phối hợp cùng ĐTV, cán bộ Điều tra phân tích, đánh giá đúng kết quả KNHT; xem xét quyết định kết thúc khám nghiệm hoặc tiếp tục bảo vệ hiện trường để có thể khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại; xác định rõ những dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được trưng cầu giám định, nội dung cần trưng cầu để phục vụ cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.
KSV yêu cầu ĐTV, cán bộ điều tra quán triệt những người tham gia KNHT giữ bí mật về kết quả khám nghiệm, tuyệt đối không được tiết lộ, gây khó khăn cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.
Bốn là, sau khi kết thúc việc KNHT, KSV phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám nghiệm, đồng thời báo cáo ngay bằng văn bản và đề xuất quan điểm với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS về kết quả KNHT, những yêu cầu của KSV không được ĐTV, cán bộ Điều tra, người có chuyên môn thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ (nếu có), cần phải khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại để có ý kiến chỉ đạo.
KSV phải dự thảo ngay báo cáo ban đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện gửi VKS cấp trên theo quy định của ngành Kiểm sát nhân dân.
Năm là, KSV phải kịp thời phát hiện, mở sổ theo dõi, tổng hợp vi phạm pháp luật trong hoạt động KNHT của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, ĐTV, cán bộ điều tra để yêu cầu khắc phục; báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra xử lý nghiêm minh cán bộ vi phạm pháp luật. Nếu vi phạm có dấu hiệu tội phạm, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra khởi tố VAHS; nếu có dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì báo cáo lãnh đạo VKSND tối cao, lãnh đạo VKS quân sự trung ương để chỉ đạo CQĐTVKSND tối cao, CQĐTVKS quân sự trung ương xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.
Quá trình kiểm sát việc KNHT, KSV có trách nhiệm tổng hợp các vi phạm pháp luật của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc Cơ quan có thẩm quyền điều tra và người tham gia tố tụng, báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo VKS ra văn bản kiến nghị, yêu cầu khắc phục theo quy định của BLTTHS.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty Luật LVN Group