Ngày nay, hình thức tập trung nguồn lực kinh doanh đã diễn ra khá phổ biến với những mức độ khác nhau và trở thành một phần quan trọng của quyền tự do kinh doanh. Cùng với đó là những luận cứ kiểm soát tập trung kinh tế được xác định nhằm giới hạn việc điều tiết của nhà nước vào hiện tượng kinh tế này.

Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh và vấn đề của Việt nam

Tư vấn luật doanh nghiệp trực tuyến – Ảnh minh họa

1. Bản chất của tập trung kinh tế

Trong kinh tế học và trong khoa học pháp lý, khái niệm tập trung kinh tế (TTKT) ở Việt Nam được bình luận ở nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, có ba cách tiếp cận cơ bản:

Một là, với tư cách là quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi của cấu trúc thị trường, TTKT trên thị trường được hiểu là quá trình mà số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất[1]. Cách nhìn nhận này đã làm rõ nguyên nhân và hậu quả của TTKT đối với cấu trúc thị trường cạnh tranh. Tuy nhiên, dường như quan điểm trên đã coi hiện tượng tích tụ tư bản là một phần của khái niệm TTKT. Hai là, với tư cách là hành vi của các doanh nghiệp, TTKT (còn gọi là tập trung tư bản) được hiểu là tăng thêm tư bản do hợp nhất nhiều tư bản[2] lại hoặc một tư bản này thu hút một tư bản khác[3]. Khái niệm này đã không đưa ra các biểu hiện cụ thể của TTKT, nhưng lại cho thấy bản chất và phương thức của hiện tượng. Ba là, dưới góc độ pháp luật, Luật cạnh tranh năm 2004 không quy định thế nào là TTKT mà chỉ liệt kê các hành vi được coi là TTKT. Theo đó, Điều 3 khoản 3 khẳng định TTKT là hành vi hạn chế cạnh tranh; Điều 16 quy định TTKT là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: (i) sáp nhập doanh nghiệp; (ii) hợp nhất doanh nghiệp; (iii) mua lại doanh nghiệp; (iv) liên doanh giữa các doanh nghiệp; (v) các hành vi tập trung khác theo quy định của pháp luật. Sự liệt kê này đã làm rõ các hình thức TTKT mà quan điểm thứ hai chưa làm rõ.

Cho dù được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau và diễn tả bằng những ngôn ngữ pháp lý khác nhau, song các nhà khoa học đều thống nhất với nhau về bản chất của TTKT bằng những nội dung sau:

Thứ nhất, chủ thể của TTKT là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường. Các doanh nghiệp tham gia TTKT có thể là các doanh nghiệp hoạt động trong cùng hoặc không cùng thị trường liên quan. Thứ hai, hình thức TTKT bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tham gia TTKT đã chủ động tích tụ các nguồn lực kinh tế như vốn, lao động, kỹ thuật, năng lực quản lý, tổ chức kinh doanh… mà chúng đang nắm giữ riêng lẻ để hình thành một khối thống nhất hoặc phối hợp hình thành các nhóm doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế. Dấu hiệu này giúp khoa học pháp lý phân biệt TTKT với việc tích tụ tư bản trong kinh tế học. Tích tụ tư bản là tăng thêm tư bản dựa vào tích lũy giá trị thặng dư, biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản[4]. Có thể thấy rằng, tích tụ tư bản là quá trình phát triển nội sinh của một doanh nghiệp theo thời gian bằng kết quả kinh doanh. Một doanh nghiệp có thể tích tụ tư bản để có được vị trí đáng kể trên thị trường, song để điều đó xảy ra đòi hỏi một khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó, TTKT cũng có dấu hiệu của sự tích tụ nhưng không từ kết quả kinh doanh mà từ hành vi của doanh nghiệp. Thứ ba, TTKT đã hình thành nên doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tổng hợp hoặc liên kết thành nhóm doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, từ đó làm thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh hiện có trên thị trường.

Hộp: Các hình thức TTKT

– Dựa vào mức độ liên kết từ hành vi TTKT người ta chia thành hai loại là TTKT chặt chẽ (hoặc còn gọi là tổ hợp) và TTKT không chặt chẽ (gọi là liên minh lý tài) .

– Dựa vào vị trí của các doanh nghiệp tham gia TTKT trong các cấp độ kinh doanh của ngành kinh tế – kỹ thuật, TTKT được bao gồm tập trung theo chiều ngang, tập trung theo chiều dọc hoặc tập trung theo đường chéo (tập trung hỗn hợp).

(i) TTKT theo chiều ngang: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh của các doanh nghiệp trong một thị trường liên quan (sản phẩm và không gian). Theo lý thuyết cạnh tranh thì sự gia tăng tập trung theo chiều ngang sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp hành động giữa các doanh nghiệp và từ đó dẫn đến hạn chế cạnh tranh theo giá.

(ii) TTKT theo chiều dọc: là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại hoặc liên doanh giữa các doanh nghiệp có quan hệ người mua – người bán với nhau.

(iii) TTKT theo đường chéo (conglomerate): là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại, liên doanh của các doanh nghiệp không cùng hoạt động trên một thị trường sản phẩm đồng thời cũng không có mối quan hệ khách hàng với nhau. Mục tiêu của việc hợp nhất này thường là phân bổ rủi ro vào những thị trường khác nhau hoặc từ những lý do chiến lược thị trường của những doanh nghiệp này.

Thực tiễn cho thấy, hình thức TTKT theo đường chéo có thể gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh. Cụ thể là: (1) các doanh nghiệp tham gia tập trung dạng conglomerate có lợi thế cạnh tranh trong việc tiết kiệm được chi phí khi có nhu cầu tín dụng, bảo hiểm, quảng cáo và cả vận tải… và với cơ sở tiềm lực hùng mạnh về tài chính, doanh nghiệp hợp nhất này có thể gây ảnh hưởng đến chính trị, vận động hậu trường,… hoặc trong công tác đối ngoại, quan hệ công cộng (puplic relation); (2) Thông qua những hoạt động kinh doanh, các giao dịch qua lại, các doanh nghiệp hợp nhất dạng conglomerate có thể có điều kiện để đưa ra những hạch toán hỗn hợp, hạn chế rủi ro về chi phí và thị trường, có được những điều kiện kinh doanh rất thuận tiện và vì thế sẽ gây bất lợi cho những đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn. Hiện tượng này sẽ làm vô hiệu hoá nguyên lý hiệu quả với tư cách là nguyên tắc chọn lọc của nền kinh tế thị trường; (3) Về cơ bản, xã hội không bao giờ mong muốn việc hình thành một thế lực quá hùng mạnh trên thị trường, đe doạ sự kiểm soát thông qua cơ chế thị trường cũng như thông qua sự hợp tác giữa nhà nước và các hiệp hội. Sự tập trung dạng conglomerate này chính là mối đe doạ đó .

– Căn cứ vào hình thức biểu hiện,  TTKT bao gồm các hành vi: sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp (Xem Điều 17 Luật cạnh tranh năm 2004).

2. Việc kiểm soát của pháp luật đối với TTKT

Luận cứ cho việc kiểm soát TTKT cần phải được xác định để nhà nước có thể đặt ra giới hạn điều tiết của mình vào các hiện tượng TTKT. Việc kiểm soát của pháp luật đối với TTKT được xác định từ những luận cứ cơ bản sau:

2.1. Luận cứ thứ nhất: cơ sở kinh tế – pháp lý

Trong các giai đoạn của thị trường, TTKT luôn xuất hiện từ những cơ sở kinh tế cơ bản sau:

Một là, do sức ép của cạnh tranh trong đời sống kinh doanh. Có hai mức độ tập trung có thể xảy ra là: (i) các nhà kinh doanh tìm mọi cách với thời gian ngắn nhất để có được vị trí cạnh tranh tối ưu trên thị trường; và (ii) các doanh nghiệp đang yếu thế cần tập hợp thành liên minh hoặc đơn vị to lớn nhằm tìm kiếm cơ hội tồn tại trước đối thủ lớn hơn đang chèn ép họ. Cả hai trường hợp nói trên đều dẫn đến kết quả là các doanh nghiệp đang từ đối đầu trở thành những đơn vị liên kết và không còn cạnh tranh với nhau nữa. Thành ra, sự TTKT bắt nguồn ở cạnh tranh nhưng kết quả của nó lại là tiêu diệt cạnh tranh. Hai là, do sức ép của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Lịch sử đã chứng minh rằng, mỗi khi thị trường xảy ra khủng hoảng thì một trong những giải pháp hiệu quả mà các doanh nghiệp thường sử dụng là tập trung lại để nương tựa vào nhau hòng tìm kiếm cơ hội tồn tại[5]. Ba là, do nhu cầu phát triển năng lực kinh doanh của thị trường.

Dưới góc độ pháp lý, TTKT được các doanh nghiệp thực hiện dựa trên những nguyên tắc căn bản mà pháp luật đã thừa nhận, đó là:

Thứ nhất, quyền tự do kinh doanh mà Hiến pháp và các văn bản pháp luật thừa nhận đã tạo ra chủ quyền cho doanh nghiệp trước nhà nước và pháp luật. Chủ quyền của doanh nghiệp được thể hiện cơ bản ở hai nội dung: (i) Doanh nghiệp có quyền định đoạt các vấn đề phát sinh trong nội bộ như quy mô kinh doanh, ngành nghề, kế hoạch và phương hướng kinh doanh, lao động…; (ii) Doanh nghiệp có quyền tự do liên kết trong kinh doanh, theo đó, quyền tự do khế ước bao gồm sự tự chủ trong việc liên kết đầu tư để mua doanh nghiệp khác hoặc liên minh góp vốn thành lập các chủ thể kinh doanh mới.

Thứ hai, pháp luật về doanh nghiệp của tất cả các quốc gia đều đã trao cho doanh nhân (trong đó có các doanh nghiệp) quyền được thay đổi quy mô theo nhu cầu kinh doanh. Trên cơ sở đó, các biện pháp tổ chức lại như sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi hình thức kinh doanh… được ghi nhận như là các biện pháp căn bản để doanh nhân chủ động thích ứng với các biến động thị trường, phù hợp với năng lực kinh doanh của mình.

2.2. Luận cứ thứ hai: tác động của TTKT đối với thị trường

TTKT với tư cách là một hiện tượng đã từng được coi là trào lưu trong lịch sử phát triển thị trường và có những tác động đáng kể đến đời sống kinh tế. Điều đó được nhìn nhận dưới hai góc độ khác nhau.

– Dưới góc độ lợi ích của các doanh nghiệp tham gia: Thứ nhất, TTKT được coi là con đường ngắn nhất để giải quyết nhu cầu tích tụ các nguồn lực thị trường của các nhà kinh doanh nhằm nâng cao năng lực kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Vì vậy, các biện pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh… được các lý thuyết kinh tế coi là cách thức không tốn kém nhiều thời gian để hình thành nên quyền lực thị trường. Thứ hai, TTKT tạo ra khả năng hợp tác sâu sắc trong kinh doanh. Thông qua các hành vi mua lại, liên doanh, các doanh nghiệp tham gia hình thành nên các liên minh kinh doanh hoặc các nhóm doanh nghiệp có mối quan hệ sở hữu hoặc đầu tư với nhau, cho dù dưới góc độ pháp lý, chúng vẫn là những chủ thể có tư cách độc lập. Sự tồn tại của nhóm kinh doanh tạo ra các hình thức hợp tác kinh doanh khép kín nếu như sự tập trung diễn ra theo chiều dọc (giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành kinh tế – kỹ thuật nhưng ở những công đoạn khác nhau của quá trình kinh doanh); hoặc hỗ trợ trong quản lý, thực hiện chiến lược mở rộng, phát triển thị trường; hoặc hợp tác chia sẻ rủi ro khi thị trường có những biến động lớn hòng tìm kiếm cơ hội vượt qua các cuộc khủng hoảng. Thứ ba, khi TTKT diễn ra giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và ở cùng một công đoạn của quá trình kinh doanh (cùng thị trường liên quan), kết quả sẽ luôn là giữa chúng không còn tồn tại cạnh tranh, bởi sau khi sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp đã hóa thân để hình thành một chủ thể duy nhất, hoặc tạo ra mối quan hệ một nhà bằng hành vi mua lại hoặc liên doanh. Thứ tư, TTKT có thể là giải pháp hiệu quả cho các doanh nghiệp trong việc cơ cấu lại hoạt động kinh doanh. Sự tác động từ thị trường có thể tạo ra cho doanh nghiệp nhiều khó khăn và thuận lợi trong kinh doanh mà từ đó, họ cần thực hiện các chiến lược cơ cấu lại cho phù hợp với những thay đổi từ thị trường nhằm bảo đảm tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh.

Dưới góc độ của thị trường cạnh tranh:Thứ nhất, TTKT làm thay đổi số lượng doanh nghiệp hiện có trên thị trường. Khi đó, cơ cấu cạnh tranh vốn có trên thị trường sẽ thay đổi về mặt cấu trúc – số lượng doanh nghiệp. Sự thay đổi trên có thể tác động đến thị trường theo những xu hướng sau: (i) các nguồn lực thị trường sẽ được sử dụng tập trung và hiệu quả hơn, tránh tình trạng manh mún, nhỏ lẻ của quá trình kinh doanh; (ii) hình thái thị trường cạnh tranh có thể sẽ thay đổi và chuyển sang mô hình độc quyền nhóm hoặc hình thành các doanh nghiệp có quyền lực thị trường. Thứ hai, TTKT làm thay đổi tương quan cạnh tranh trên thị trường. Sự tích tụ hoặc liên minh các nguồn lực kinh tế giữa các doanh nghiệp thông qua các biện pháp TTKT đã đột ngột làm xuất hiện một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh là tổng năng lực cạnh tranh của tất cả doanh nghiệp tham gia. Về căn bản, TTKT sẽ không trực tiếp làm giảm vị trí cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp không tham gia, song chúng lại làm thay đổi quan hệ cạnh tranh giữa họ với doanh nghiệp sau khi TTKT so với trước đó. Thứ ba, các lý thuyết về thị trường đôi khi coi sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh như là các biện pháp cơ cấu lại thị trường. Những luận điểm được đưa ra để chứng minh về vai trò cơ cấu lại thị trường của TTKT là (i) các biện pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp góp phần cơ cấu lại các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả song không làm giảm đi giá trị đầu tư của thị trường. Trong pháp luật kinh doanh, các chế định về giải thể và phá sản doanh nghiệp được coi như những phương thức giải quyết số phận của các doanh nghiệp gặp khó khăn và kinh doanh kém hiệu quả. Tuy nhiên, việc sử dụng triệt để hai biện pháp nói trên có thể gây ra hậu quả là, sau khi các doanh nghiệp bị giải thể, phá sản, chấm dứt tồn tại thì các giá trị đầu tư của họ sẽ chỉ được dùng để giải quyết trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp và trả lại cho các chủ đầu tư. Khi đó, giá trị đầu tư chung trên thị trường liên quan sẽ giảm đi tương ứng. Trong khi đó, sự sáp nhập, mua lại, hợp nhất có thể diễn ra với vai trò của quá trình điều phối các nguồn lực kinh tế từ những người sử dụng kém hiệu quả để tập trung vào doanh nghiệp có khả năng sử dụng tốt hơn. Khi đó, số lượng doanh nghiệp có thể giảm đi song giá trị đầu tư của thị trường không giảm sút; (ii) Sự manh mún của quy mô đầu tư có thể sẽ làm cho thị trường kém phát triển, lúc đó, TTKT lại được coi như giải pháp cho việc cơ cấu lại quy mô kinh doanh trên thị trường; (iii) trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc phải đương đầu với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia có tiềm lực tài chính và kinh nghiệm kinh doanh lâu đời sẽ là thách thức khá lớn đối với các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế thị trường chuyển đổi. Một trong những biện pháp mà nhiều nước (trong đó có cả các nước phát triển) sử dụng là tập trung các nguồn lực kinh tế để hình thành nên các tập đoàn hoặc liên minh có sức mạnh về tài chính, kỹ thuật, công nghệ.

Từ những phân tích về luận cứ cho việc TTKT cũng như tác động của chúng đối với thị trường, có thể đưa ra một vài đánh giá sau:

Một là, việc thực hiện các hành vi TTKT là quyền của doanh nghiệp. Dưới góc độ kinh tế, các biện pháp sáp nhập, hợp nhất, liên doanh hay mua lại xuất phát và phụng sự cho nhu cầu kinh doanh của doanh nhân, cho nên chúng thuộc phạm vi của quyền tự do kinh doanh mà pháp luật đã thừa nhận và bảo hộ. Vì lẽ ấy, Luật cạnh tranh của các quốc gia đều không loại bỏ các hành vi TTKT ra khỏi sinh hoạt của thị trường.

Hai là, TTKT là sự tập hợp các nguồn lực kinh tế bằng hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh mà không phải là quá trình tích tụ tư bản thông thường. Nói cách khác, thông qua TTKT, các doanh nghiệp nâng cao được năng lực cạnh tranh song không phải từ hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp. Do đó, như thực tế đã cho thấy, các biện pháp TTKT đôi khi được sử dụng để hình thành nên các thế lực thống lĩnh thị trường hoặc độc quyền.

Ba là, ở chừng mực nào đó, TTKT đem lại cho thị trường hiệu quả nhất định cho dù chúng có thể tạo ra các doanh nghiệp có khả năng chi phối thị trường. Do đó, kinh tế học đã khuyến cáo rằng, khi kiểm soát các vụ việc về TTKT, nhà nước và pháp luật nhất thiết phải cân nhắc về tính hiệu quả của từng vụ việc cụ thể.

3. Kiểm soát TTKT theo Luật cạnh tranh năm 2004

Từ những luận cứ cơ bản trên, kiểm soát TTKT đã được coi là một trong những nhiệm vụ cơ bản của pháp luật cạnh tranh hiện đại. Tất cả các quốc gia đang phát triển thị trường đều đặt ra cơ chế phối hợp giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật về doanh nghiệp để kiểm soát việc TTKT. Theo đó, pháp luật về doanh nghiệp sẽ thừa nhận quyền được TTKT của doanh nhân, quy định về thủ tục pháp lý để họ thực hiện các hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại và góp vốn để bảo đảm trật tự pháp lý trong kinh doanh. Pháp luật cạnh tranh kiểm soát các hiện tượng TTKT có khả năng đe dọa đến trật tự cạnh tranh của thị trường bằng hai cơ chế, đó là: (1) Cấm đoán các trường hợp TTKT làm tổn hại đến tình trạng cạnh tranh; (2) Kiểm soát các trường hợp có khả năng tổn hại đến cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam cũng trong xu hướng đó. Căn cứ vào các quy định tại mục 3 chương II Luật cạnh tranh năm 2004, có thể thấy rằng, các nhà làm luật của Việt Nam đã chia các trường hợp TTKT thành 3 nhóm với thái độ xử lý khác nhau, là: (i) Nhóm TTKT bị cấm (còn gọi là khu vực màu đen); (ii) Nhóm TTKT cần phải kiểm soát (khu vực màu xám); (iii) nhóm được tự do thực hiện TTKT (khu vực màu trắng). Phân tích các quy định đó, có thể đưa ra một vài đánh giá như sau:

Thứ nhất, Luật cạnh tranh đã sử dụng thị phần làm cơ sở phân loại nhóm TTKT và làm tiêu chí duy nhất để xác định khả năng gây hại của các trường hợp TTKT. Theo đó, những trường hợp TTKT mà thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50%[6] trên thị trường liên quan luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh. Trong trường hợp này, việc TTKT đã hình thành một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nắm giữ đa số thị phần trên thị trường liên quan mà không phải từ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó đã làm cho các doanh nghiệp còn lại chỉ là thiểu số trên thị trường. Bản chất hạn chế cạnh tranh thể hiện ngay ở sự thay đổi cơ bản, đột ngột trong tương quan cạnh tranh và cấu trúc cạnh tranh trên thị trường. Điều đó cũng cho thấy mức độ làm giảm, làm cản trở và sai lệch cạnh tranh một cách đáng kể của nhóm hành vi này. Khi thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia chỉ chiếm dưới 30%[7] trên thị trường liên quan thì sự TTKT chưa có khả năng tạo ra vị trí thống lĩnh cho doanh nghiệp hình thành sau khi tập trung. Lúc này, việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại hay liên doanh chỉ đơn giản là các biện pháp cơ cấu lại kinh doanh hoặc đầu tư vốn bình thường nên chưa chứa đựng những nguy cơ đe dọa đến trật tự cạnh tranh trên thị trường. Thứ hai, việc sử dụng yếu tố thị phần kết hợp[8] làm căn cứ để kiểm soát TTKT cho thấy, Luật cạnh tranh của Việt Nam chỉ quan tâm đến các trường hợp TTKT theo chiều ngang. Thứ ba, Luật cạnh tranh cũng đã cân nhắc đến các yếu tố về tính hiệu quả của các trường hợp TTKT bằng cách đặt ra những trường hợp có thể được miễn trừ. Có hai trường hợp TTKT được xem xét cho hưởng miễn trừ là: (i) một hoặc nhiều bên tham gia TTKT đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản; (ii) Việc TTKT có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ[9]. Cơ chế miễn trừ được đặt ra từ các luận điểm cơ bản của kinh tế học, theo đó, khi phân tích bản chất kinh tế của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc các trường hợp TTKT, các nhà kinh tế đã chứng minh rằng có nhiều trường hợp xét về hình thức, hành vi TTKT của các doanh nghiệp đã cấu thành đủ các dấu hiệu để kết luận là vi phạm Luật cạnh tranh, song chúng lại có nhiều tác dụng tích cực cho sự phát triển của kinh tế – xã hội. Khi đó, lý thuyết về tính hiệu quả đã được đặt ra trong lý luận của khoa học pháp lý trong lĩnh vực cạnh tranh. Khi xem xét vấn đề miễn trừ đối với TTKT, cần phải nhấn mạnh rằng: (i) Thủ tục miễn trừ được coi như điều kiện đủ để các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc TTKT rơi vào trường hợp bị cấm nhưng thỏa mãn đủ điều kiện được miễn trừ được thực hiện các thỏa thuận, các hành vi TTKT. Điều đó có nghĩa là các hành vi hạn chế cạnh tranh được miễn trừ không mặc nhiên được thực hiện khi thỏa mãn các điều kiện do luật định về mặt nội dung mà phải có được quyết định cho hưởng miễn trừ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (ii) thủ tục miễn trừ mang bản chất của thủ tục hành chính được thực hiện theo quy định của pháp luật cạnh tranh; (iii) quyết định cho hưởng miễn trừ không có giá trị vĩnh viễn. Chúng luôn có giá trị trong một thời hạn nhất định[10] hoặc có thể được xem xét lại và có thể bị bãi bỏ theo quy định của pháp luật. Thứ tư,Thứ năm, khi các doanh nghiệp thực hiện các hành vi TTKT trái với pháp luật cạnh tranh như tiến hành TTKT trong những trường hợp bị cấm hoặc TTKT mà không thông báo, thì các doanh nghiệp vi phạm có thể bị phạt tiền tùy theo hành vi vi phạm từ 1% đến 10% doanh thu trong năm tài chính trước khi tiến hành TTKT, có thể bị buộc thực hiện chia tách các doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bị buộc phải bán tài sản đã mua[12]… các trường hợp sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp luôn gắn liền với các thủ tục về đăng ký kinh doanh, đăng ký kinh doanh bổ sung theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Do đó, khi tiến hành TTKT sẽ có hai tình huống xảy ra về thủ tục là (i) nếu TTKT nằm ở khu vực màu trắng thì chỉ phải làm các thủ tục về việc đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh mà không phải thực hiện bất cứ thủ tục gì tại cơ quan cạnh tranh; (ii) nếu TTKT thuộc khu vực màu xám cần kiểm soát thì trước khi tiến hành các thủ tục tại cơ quan đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp tham gia tập trung phải làm thủ tục thông báo tại cơ quan quản lý cạnh tranh. Chỉ khi nào có trả lời của cơ quan này khẳng định việc TTKT không thuộc trường hợp bị cấm thì các doanh nghiệp mới được thực hiện các thủ tục về sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh theo pháp luật doanh nghiệp[11].

4. Vấn đề của Việt Nam

Các cuộc tranh luận về việc kiểm soát TTKT đã thực sự kết thúc sau khi Luật cạnh tranh được ban hành, song thực tiễn của thị trường và năng lực quản lý của các cơ quan công quản liên quan đến TTKT đặt cho chúng ta một số vấn đề cần phân tích và nhận thức đầy đủ.

Thứ nhất, những lo ngại cho số phận của các doanh nghiệp nội địa trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế dường như lại sôi động khi các diễn biến của lộ trình Việt Nam gia nhập WTO phát triển theo chiều hướng thuận lợi. Những lo ngại xuất phát từ tình trạng hơn 90% doanh nghiệp nội địa có quy mô vừa và nhỏ. Điều đó phản ánh tình trạng manh mún trong đầu tư và năng lực cạnh tranh hạn chế của doanh nghiệp trong nước. Cũng cần khẳng định rằng, trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa, nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ, còn các doanh nghiệp phải chủ động, tích cực tìm cách nâng cao khả năng kinh doanh và cạnh tranh cho chính mình. Lịch sử phát triển của thị trường đã cho thấy, khi cạnh tranh diễn ra khốc liệt thì tất yếu nảy sinh nhu cầu liên kết hoặc tập trung các nguồn lực kinh tế từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa hòng tìm kiếm cơ hội tồn tại, phát triển. Mặt khác, có một vài tập đoàn kinh tế đa quốc gia khi đầu tư vào Việt Nam đã thực hiện chiến lược phân khúc thị trường để chiếm lĩnh bằng các liên doanh theo vùng, miền. Sau khi khẳng định được vị trí, những tập đoàn này đã thực hiện hành vi sáp nhập hoặc hợp nhất để thành lập nên tập đoàn duy nhất trên thị trường. Những điều trên cho thấy nhu cầu và triển vọng sáng sủa của lĩnh vực pháp luật kiểm soát độc quyền trong thời gian tới trên thị trường Việt Nam.

Thứ hai, cho đến nay, các vụ việc mang dáng dấp của TTKT có khả năng làm thay đổi tình trạng cạnh tranh trên thị trường Việt Nam chủ yếu diễn ra trong khu vực kinh tế quốc doanh. Sự ra đời của các tổng công ty nhà nước từ hơn một thập kỷ trước đây đã làm xuất hiện những thế lực độc quyền, hình thành nên các khu vực thị trường có mức độ và chỉ số tập trung lớn. Hiện tại, các tổng công ty đang chuyển đổi thành các tập đoàn kinh tế. Song cho dù được gọi với tên gọi gì và tổ chức dưới mô hình nào thì sự ra đời và tồn tại của chúng cũng đã làm thay đổi căn bản diện mạo cạnh tranh của khu vực thị trường mà chúng họat động. Tuy nhiên, lý thuyết về TTKT không coi sự hình thành các tập đoàn kinh tế quốc doanh nói trên là TTKT thuộc phạm vi kiểm soát của pháp luật cạnh tranh. Bởi lẽ, cơ sở để các đơn vị thành viên liên kết thành tổng công ty là các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứ không phải là kết quả của quá trình tự sáp nhập, hợp nhất hoặc góp vốn, mua lại doanh nghiệp. Tuy nhiên, khoa học pháp lý có thể coi hiện tượng này là một dạng biến thể của TTKT trong điều kiện đặc biệt ở các quốc gia có cơ chế kinh tế chuyển đổi, từ đó tìm kiếm những cơ chế kiểm soát và điều tiết cho phù hợp.

Thứ ba, theo Luật cạnh tranh năm 2004 và Luật doanh nghiệp năm 2005, việc kiểm soát các hành vi sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp có sự tham gia của các cơ quan là (i) Cơ quan quản lý cạnh tranh có chức năng kiểm soát TTKT; (ii) Hội đồng cạnh tranh xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát TTKT như thực hiện TTKT trong trường hợp bị cấm, tập trung kinh tế mà không thực hiện việc thông báo; (iii) Cơ quan đăng ký kinh doanh thực hiện các thủ tục liên quan đến đăng ký kinh doanh trong các trường hợp sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh. Để các cơ quan nói trên thực hiện tốt chức năng của mình, đòi hỏi phải giải quyết được những vấn đề sau: Một là, để xác định các trường hợp TTKT cụ thể, cần kiểm soát và xử lý các hành vi vi phạm được thực hiện chủ yếu dựa vào việc xác định chính xác thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia. Muốn thực hiện hiệu quả, đòi hỏi khả năng dự báo của các cơ quan hữu trách về tình hình và mức độ tập trung của các thị trường cụ thể. Nói cách khác, các cơ quan có thẩm quyền cần có những số liệu thực tế về các thị trường có khả năng xảy ra những trường hợp TTKT cần kiểm soát hoặc bị cấm đoán. Khi có hành vi xảy ra, các cơ quan có thẩm quyền luôn ở trong trạng thái chủ động thay vì chờ đợi các doanh nhân khác khiếu nại rồi mới điều tra. Hai là, thẩm quyền của các cơ quan cạnh tranh, cơ quan đăng ký kinh doanh được thực hiện trong những công đoạn pháp lý khác nhau của quá trình tiến hành TTKT. Vì vậy, sự phối hợp trong họat động giữa các cơ quan này là hết sức cần thiết để đảm bảo hiệu quả của việc kiểm soát TTKT. Ba là, những hành vi TTKT vi phạm pháp luật cạnh tranh, suy cho cùng là những trường hợp doanh nghiệp vi phạm đã hoàn tất việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh cả về phương diện thực tế lẫn pháp lý. Do đó, để phát hiện sự vi phạm đòi hỏi các cơ quan đăng ký kinh doanh kiểm soát được tình hình TTKT trong địa bàn mình quản lý bằng các số liệu thống kê và cần phải công khai các số liệu này.

Thứ tư, việc pháp luật cạnh tranh chỉ kiểm soát và cấm đoán các hành vi tập trung theo chiều ngang như đã phân tích cho thấy giới hạn điều chỉnh của pháp luật. Trong khi đó, các hiện tượng TTKT theo chiều dọc hoặc tập trung hỗn hợp cũng đã được các nhà kinh tế học khuyến cáo về khả năng gây hại cho thị trường cạnh tranh. Có thể do sự phức tạp của các hiện tượng TTKT nói trên đã làm cho nhà làm luật e ngại trong việc tìm kiếm phương thức điều tiết phù hợp với bản chất và khả năng gây hại của chúng. Song nếu có tâm lý như vậy đi chăng nữa thì cũng không thể bỏ ngỏ việc nghiên cứu các hiện tượng tập trung nói trên để tìm kiếm cơ chế điều tiết thích hợp.

Từ những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, khoa học pháp lý và kinh tế học cần tiếp tục nghiên cứu một cách tổng quan và chi tiết về các tác động của TTKT đối với thị trường Việt Nam, nghiên cứu và dự báo tình hình TTKT trong thời gian tới để tìm kiếm các cơ chế, chính sách và pháp luật hợp lý hơn nữa. Mặt khác, cần đầu tư các phương tiện cần thiết để hệ thống, thông tin kịp thời về diễn biến của các trường hợp TTKT đã và đang diễn ra trên thị trường để huy động khả năng giám sát của thị trường, nhằm hỗ trợ hoạt động kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền.


1 Lê Viết Thái, Chuyên đề về Hành vi TTKT, đề tài nghiên cứu về thể chế cạnh tranh trong điều kiện phát triển thị trường tại Việt Nam, Viện nghiên cứu thương mại – Bộ Thương mại, năm 2005.

2 Tư bản được hiểu là các giá trị kinh tế trên thị trường được sử dụng để tìm kiếm giá trị thặng dư như vốn, công nghệ, trình độ quản lý…

3 Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội & nhân văn, năm 1994, tr. 870.

[4] Từ điển tiếng Việt, sđd, tr. 948.

[5] Vũ Quốc Thúc, sđd, tr. 100.

[6] Xem: Điều 18 Luật cạnh tranh năm 2004

[7] Xem: Điều 20 Luật cạnh tranh năm 2004 và Nghị định 116/2005/NĐ-CP.

[8] Khoản 6 Điều 3 Luật cạnh tranh quy định: thị phần kết hợp là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia vào TTKT.

[9] Điều 19 Luật cạnh tranh.

[10] Trong quyết định cho hưởng miễn trừ luôn xác định thời hạn có hiệu lực.

[11] Điều 24 Luật cạnh tranh.

[12] Xem từ Điều 25 đến Điều 29 Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30 tháng 09 năm 2005 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh.

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 79 THÁNG 7 NĂM 2006 – THS. NGUYỄN NGỌC SƠN – Trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm  hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)