Lanh, khôn, nhưng thiếu chắc chắn
– Có nhiều ý kiến khác nhau về lớp trẻ bây giờ: cả lạc quan lẫn bi quan. Còn ông, ấn tượng chung về họ ở ông ra sao?
– Ở bạn trẻ bây giờ, cảm giác tự do rất mạnh. Hơn hẳn cái đó ở bọn tôi. Thời trước, chúng tôi rón rén, khép nép, cái gì cũng sợ. Chúng tôi chờ đợi được cho phép làm… mà vẫn vui vẻ với điều đó.
Các bạn giờ sống với cả thế giới rộng lớn, nhiều bạn có cảm giác mình là công dân thế giới. Chúng tôi xưa quanh quẩn trên mảnh đất quen thuộc. Nhớ lần đầu đi qua biên giới thì tim đập thình thịch.
Song đằng sau vẻ rất lanh, rất khôn, tiếp cận và hiểu biết nhiều, lớp trẻ bây giờ lại gợi trong tôi một cảm giác thiếu chắc chắn, trên đại thể lại lờ mờ, thiếu ước mơ lớn. Hình như họ có cảm giác bi quan, không bao giờ đạt được lý tưởng cao cả nữa.
Họ có thể phóng đi rất nhanh để rồi chả biết làm gì ở cái nơi vừa đến. Đằng sau cái vẻ vội vã của họ hình như ẩn giấu một nỗi thèm thuồng, chỉ sợ không được hưởng hết mọi lạc thú ở đời. Trong sự vội vã ấy, họ lại không có khả năng dò vào chiều sâu của cuộc sống.
Tôi đã nói người mình là một khối tự phát và lớp trẻ thường là lớp người nhạy cảm nhất, dễ gây bất ngờ nhất. Lớp trẻ hiện nay mang trong nó cả một tiềm năng ghê gớm lẫn cả tai hoạ tiềm tàng. Nếu không biết khai thác, thật khó đoán biết điều gì sẽ xảy ra.
– Ông có thể cắt nghĩa hiện tượng này?
– Tuổi trẻ bao giờ cũng bị ảnh hưởng ngang bởi tinh thần thời đại nhiều hơn là ảnh hưởng dọc từ thế hệ cha ông. Mà thời đại ta nói chung là thời đại của cái gì đó vỡ ra dang dở và chưa được sắp xếp lại.
Nước ta vẫn đang trên đường phát triển, nói theo thuật ngữ xã hội học là trong quá trình chuyển đổi. Con người bước từ chỗ tối ra chỗ sáng, nên đôi khi cảm giác vẫn còn bị ngợp và chập choạng, lúc thì tự tin quá, lúc lại tự ti quá. Cái này thấy rõ ở giới trẻ. Tôi nhớ một nhân viên tuyển dụng nước ngoài thường tiếp xúc với SV mới ra trường, có nhận xét, SV ta nhiều khi nói nhiều điều mà mình không biết, đến lúc hỏi kỹ thì lại trở nên lúng túng.
So với lớp trước, lớp trẻ hiện nay có cảm giác về tự do tốt hơn, nhưng nhiều lúc điều đó đồng nghĩa với bơ vơ, mất phương hướng, không xác định được mình.
Trong nhiều trường hợp, họ hiểu rất sai về tự do. Tự do không phải là bột phát, muốn làm gì thì làm. Mà tự do là sự hiểu biết chung về bản thân, về hoàn cảnh và cách sống thích hợp với hoàn cảnh, đồng thời khẳng định bản thân mình.
Tự do cao nhất là tự do về mặt tinh thần, liên quan đến nội lực con người, sự phong phú trong tinh thần của họ, chứ tự do không phải là lăn ra đường để khẳng định cái tôi. Đa số giới trẻ hiện nay, tự do bề ngoài thì có nhưng sâu sắc bên trong thì không. Điều này dẫn đến việc họ không tìm được cách khẳng định mình, mà trút cái gọi là tự do vào những hành động ngông cuồng bề ngoài.
– Nói một chút về sự mất phương hướng của lớp trẻ. Ở Mỹ từng có một “thế hệ vứt đi” sau Thế chiến I, và một thế hệ hippy trong chiến tranh Việt Nam, mất niềm tin vào cuộc sống. Ở Nhật cũng có một thế hệ khủng hoảng niềm tin… VN trải qua một cuộc chiến lâu dài, đang trên đường phát triển và sẽ phải đối mặt với cả những hiện tượng xã hội đi kèm. Ông có nghĩ một điều tương tự ở đây?
– Bất cứ một xã hội nào, sau thời gian chiến tranh, con người cũng đều cảm thấy đời là trống rỗng… Đây là bệnh chung của xã hội thời hậu chiến. Còn xã hội hiện đại mà phát triển nóng quá, giới trẻ chịu áp lực thì cũng dễ gây những hiệu ứng tâm lý. Ngay cái ham hưởng thụ, sống gấp… cũng là một biểu hiện.
So với các nước cũng trải qua chiến tranh, tôi cho là ở VN, tình hình tương tự còn trầm trọng hơn nhiều. Thiếu một sự quan tâm thường xuyên, thiếu một cái nhìn kỹ lưỡng, thiếu một sự nhận chân, như thế này sẽ luôn luôn có scandal chờ sẵn.
Tuy nhiên, ở VN, lối phản ứng của con người không bao giờ quyết liệt cả, mà thường tản mát, tự bó hẹp, làm nghèo mình đi.
Không nên dạy trẻ về một xã hội ảo tưởng
– Nếu làm phép so sánh tương quan với các thế hệ trước, ông đánh giá lớp trẻ bây giờ nằm ở vị trí nào?
– So với lớp cha anh thì họ đã có nhiều cái mới. Nhưng, so với yêu cầu thời đại thì còn đòi hỏi một sự phấn đấu cao hơn hẳn.
Đầu thế kỷ XX, nước ta có sự hội nhập mạnh mẽ với thế giới, với văn minh phương Tây.
Cả một lứa như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Anh… thực sự tạo dựng được một nền tảng học thuật vượt xa các bậc tiền bối.
Trong văn học nghệ thuật, một thế hệ các nhà khoa học, các nhạc sỹ, hoạ sỹ, nhà văn… để lại dấu ấn mạnh mẽ.
Lấy đơn cử, các tác giả thời ấy như Nguyễn Công Hoan, Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam… có số lượng người đọc đông đảo, trước họ chưa từng có. Tức là sức ảnh hưởng vào thời đại của họ cũng rất lớn.
Thời Pháp thuộc, 15-16 tuổi người ta đã đi làm công chức và đã có sự trưởng thành về mặt xã hội. Không ai có thể nghĩ là Vũ Trọng Phụng chết non được, vì tuy mới 27 tuổi ông đã có một sự nghiệp hoàn chỉnh.
Sau đó, thế hệ thanh niên sinh khoảng trước sau 1930 và bắt đầu lập nghiệp từ sau giai đoạn Cách mạng tháng 8 1945 cũng để lại trong tôi một ấn tượng rõ rệt. Các nhà văn như Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, các nhạc sĩ như Nguyễn Đức Toàn, Huy Du… làm nên một bước chuyển mới trong sinh hoạt văn nghệ. Các tác phẩm để đời của họ thường được viết ngay khi họ mới 20-25, thậm chí còn trẻ hơn nữa.
– Thế còn thế hệ các ông, thế hệ thanh niên trong chiến tranh chống Mỹ, cũng là một thế hệ ưu tú mà nhiều người thường nhắc đến với một sự hoài niệm tự hào?
– Cuộc chiến tranh vắt kiệt sức của một thế hệ, nhưng không phủ nhận, nó cũng tạo động lực để thế hệ ấy phát huy được tốt nhất tinh hoa của mình.
Tuy nhiên, khơi dậy nội lực theo cách này giống như khai hoang, chỉ được 1 lần. Vấn đề là chúng ta phải thâm canh. Chúng ta phải đào tạo ra những người luôn có thể làm ra những thứ tinh hoa, 1 lớp người tinh hoa.
– Vậy, theo ông, làm sao để “thâm canh” trên thế hệ trẻ hiện tại 1 cách tốt nhất?
– Hiện tại, đã qua rồi cái thời xây dựng thông điệp qua những điển hình.
Trước đây, chúng ta cứ hay dạy trẻ “ở hiền gặp lành”… bây giờ phải có những câu khác, ở hiền đôi khi vẫn gặp ác như thường. Không nên dạy cho lớp trẻ về một xã hội ảo tưởng, mà nên phản ánh đúng thực tế của nó.
Thêm nữa, giới trẻ luôn tích tụ khối năng lượng lớn, làm sao để hướng cho họ sử dụng tốt nguồn năng lượng này. Ngay đằng sau những cuộc đập phá mà nhiều người lên án là một cảm giác muốn tự khẳng định. Mà xã hội chúng ta chưa chỉ cho họ con đường chân chính để làm việc này. Điều kiện để họ phát triển – trước tiên là một nền giáo dục hiện đại mang tinh thần nhân bản – thì lại càng chưa có.
Điều quan trọng nhất là cho họ thấy mọi nỗ lực chính đáng của họ sẽ được khẳng định. Nếu chỗ nào họ cũng cảm thấy bí, bị chặn lại… bởi những điều tiêu cực giới hạn như trong chuyện học hành, công việc… thì họ sẽ dễ nản. Trong xã hội, vẫn đầy rẫy nạn tham nhũng, vẫn đánh giá nhau về kinh nghiệm, sống lâu lên lão làng… điều này cũng làm sự vận động xã hội nói chung chậm lại.
– Cùng với sự phát triển xã hội và hội nhập, liệu những quy tắc xã hội đã chạy theo kịp sự vận động của thời đại?
– Lep Landao, nhà vật lý nổi tiếng có nói: “Thời đại của chúng ta là thời đại của những nghịch lý”. Trong hoàn cảnh mọi sự đều thay đổi như vậy, không thể giữ mãi một kiểu nghĩ cũ.
Theo tôi, thời đại mới bây giờ đòi hỏi tất cả phải minh bạch hơn bao giờ hết. Nay là lúc mọi chuyện tốt xấu nên công khai ra, công nhận nó, chứ đừng đẩy nó vào bóng tối, lại làm phát triển ngầm hơn.
Tôi ví dụ, ở một số nước, người ta cho phép hoạt động mại dâm công khai miễn là có quản lý chặt chẽ. Còn ở ta, cho rằng mại dâm là trái với thuần phong mỹ tục, với quan niệm truyền thống phương Đông nên ta chỉ có cấm. Nhưng ai cũng thấy chỉ cấm được trên danh nghĩa, còn trong thực tế lại để lan tràn.
Hiện tại chúng ta vẫn duy trì nhiều sự quá khắt khe, mà tiếc thay, cái khắt khe ấy chỉ ở trên bề nổi, trong thực tế của chúng ta vẫn đầy rẫy những chuyện ấy. Đấy là một biểu hiện của sự giả dối.
Trong mắt tôi, vụ NSƯT Lê Vân thẳng thắn nhìn nói lên những gì chưa được trong gia đình là một tín hiệu tốt. Tất nhiên, chẳng có gì là trọn vẹn cả, được cái này hỏng cái khác. Người Việt hay thích tròn trịa, mà chính vì sự tròn trịa này nó làm ta bớt sắc đi.
– Sự phát triển kinh tế, xã hội luôn phải đối mặt với sự thay đổi các giá trị văn hoá. Theo ông thì làm gì để điều tiết cân bằng hiện tượng này, để giới trẻ dễ đi giữa 2 làn đường này?
– Trong văn hóa học, giá trị có 2 dạng. Các giá trị nhân bản thì thời nào cũng có, như sự tôn trọng xã hội, sống lương thiện, tự do… Lại có những giá trị chỉ thích hợp với từng thời đại Một số bài học truyền thống ta đang giáo dục cho lớp trẻ như phải biết vâng lời hoặc “tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại”… giờ không thích hợp nữa.
Lớp trẻ cần tự hình thành một hệ thống giá trị mới
– Ông đánh giá cao điều gì nhất ở lớp người trẻ?
– Thứ nhất là khả năng dám nghĩ khác và thứ hai là sự thẳng thắn.
Tôi nhớ mãi câu nói của một thanh niên. Ta hay khuyên họ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Nhưng cậu “lý luận”, đó là quan hệ bình đẳng chứ không phải mang ơn, hệ luỵ: “nhờ tôi mua quả bà trồng cây mới sống được”. Cảm giác biết ơn là một giá trị truyền thống. Tôn trọng lao động của nhau, mỗi người có một giá trị đóng góp là một giá trị hiện đại, hợp thời.
Trong cách nghĩ ấy, rõ ràng là đã thấy một lớp người khác.
Trong phẩm chất của các bạn trẻ, tôi cũng đề cao khả năng có những khoảng đơn độc với chính mình. Người Việt Nam thường rất sợ sống một mình. Việc ít đọc sách, ít nghiên cứu cũng là một biểu hiện. Điều này thể hiện tính bầy đàn cao. Muốn có trí tuệ thì phải dám đơn độc.
– Hiện tại, xã hội Việt Nam đã phát triển nhiều so với trước, nhưng một cách thẳng thắn, chúng ta vẫn ở vị trí rất khiêm tốn, bị thế giới bỏ xa khá lớn. Theo ông thì có hướng nào để nhanh thu hẹp khoảng cách này không?
– Có những người chủ trương như đi tắt, đón đầu. Tôi không ủng hộ. Chúng ta cũng phải xác định thẳng với người dân là cố gắng mấy cũng không bao giờ đón đầu được. Cái chính là phải cố đi cho nhanh. Đi tắt thì sau này lại phải trả giá thôi.
Chúng ta đang phát triển nóng quá. Nếu cả xã hội sống tỉnh táo, bình tĩnh, tự nhận thức chính xác về mình, làm gì đó theo đúng chuẩn mực, thì bằng những bước đi chắc chắn như thế, chúng ta sẽ giúp cho lớp trẻ một cơ hội thuận lợi.
– Gác qua những điều kiện hỗ trợ của xã hội, vậy thì bản thân giới trẻ phải đáp ứng những yêu cầu gì để có thể thực hiện nhiệm vụ thời đại của mình?
– Thời đại đòi hỏi ở lớp trẻ một trí tuệ cao lắm. Lớp trẻ hiện tại cũng đang thiếu một khát vọng lớn lao, thiếu sự nghĩ rằng, mình phải ngang hàng với các dân tộc trên thế giới.
Tôi nghe kể một câu chuyện đàm đạo về giấc mơ. Người Việt bảo, mơ có một cái honda, ô tô. Người Nhật bảo: Tôi có ước mơ là thực hiện được ước mơ của bạn. Chuyện phiếm thôi, nhưng nó phản ánh tâm lý nhược tiểu của dân tộc mình.
Chúng ta phải có một cuộc tự vấn rộng lớn, xã hội đặt câu hỏi với chính mình. Nghĩ rằng, mọi vấn đề đều có thể có cách làm khác.
– Sự tự vấn ấy được thực hiện dưới hình thức nào?
– Chúng ta nên có nhiều những cuộc đối thoại với lớp trẻ. Từ chuyện của Lê Vân, tôi thấy cần có sự đối thoại thường xuyên giữa lớp trẻ – già. Đặt mình vào địa vị của nhau, lớp già thì nên biết điều hơn, đừng dạy dỗ nhiều, lớp trẻ nên thông cảm hơn, hiểu những khó khăn ngày hôm qua…
– Cuối cùng, ông đặt nềm tin vào giới trẻ chứ?
– Hồi ở Văn nghệ quân đội, ông Nguyễn Khải hay bảo tôi, nói chuyện với lớp trẻ là khó nhất, nhưng chinh phục được “hội nó” lại là thú vị nhất. Khi trưởng thành lên, tôi cũng thấy thế. Trong những cuộc đối thoại, được giới trẻ khen tôi cảm thấy yên tâm, không chừng mình còn sống được với tương lai.
Tôi đang viết đều chuyên mục “Thói hư tật xấu người Việt” trên báo Thể thao – Văn hoá. Tòa soạn bảo chính độc giả trẻ lại quan tâm hơn, điều đó động viên tôi rất nhiều.
Tôi nhớ, lúc tôi mới vào nghề, người phụ trách trực tiếp tôi là nhà văn Nhị Ca luôn bảo: “Nhất định các cậu phải làm được hơn chúng mình”. Câu ấy không làm cho tôi kiêu căng, mà giúp mình phải cố lên để đạt được kỳ vọng. Ngày nay tôi cũng thường nói thầm như thế với các bạn trẻ xa gần.
Tôi muốn nói rằng, các bạn trẻ cứ yên tâm. Xã hội ta chưa phải là ưu việt, nhưng luôn đón chờ những tài năng trẻ.
Tuy nhiên, hiện giờ vẫn chưa hình thành được hệ thống giá trị mới. Lớp trẻ cần tự hình thành cho mình, trong sự tác động của xã hội.
– Cảm ơn ông.
“Dân tộc Việt là khối tự phát khổng lồ”
(Hoàng Lê thực hiện, VietnamNet)
Soi rọi các hiện tượng xã hội dưới ánh sáng văn hóa – đó là công việc mà nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Vương Trí Nhàn đang theo đuổi. Dưới đây là những chia sẻ của ông với phóng viên VietNamNet nhân một câu chuyện thời sự.
Người Việt duy tình, cạn nghĩ, ăn xổi
– Suốt tuần nay, dư luận ầm ĩ xung quanh sự kiện 1 diễn viên trẻ bị đưa chuyện phòng the lên mạng. Từ góc độ một người nghiên cứu văn hóa, nhận định của ông về việc này ra sao?
Có hai hiện tượng để nhìn nhận.
Thứ nhất, việc tự quay phim ghi lại chuyện ân ái của mình, chứng tỏ một bộ phận lớp trẻ hiện nay có lối sống khá bế tắc, bất cần, muốn vượt ra ngoài các lề thói đạo đức thông thường.
Thứ hai, việc dư luận sôi sục lên trước sự kiện ấy, chứng tỏ chúng ta có một đám đông rất nhạy cảm, dễ bị kích động. Song tôi dự đoán, rồi cũng giống như một vài vụ trước, như vụ các cô dâu lấychồng Đài Loan, Hàn Quốc, nó chỉ là hiệu ứng lửa rơm.
Lối sống thác loạn của một bộ phận giới trẻ không phải bây giờ mới có. Chờ nó được đưa ra sân chơi công cộng, mới nảy sinh “làn sóng” chú ý, mổ xẻ, lên án nó thì muộn quá rồi còn gì. Lẽ ra với một thái độ kiên trì và bình tĩnh, chúng ta phải mang ra bàn bạc từ lâu, vừa bàn vừa lắng nghe và chờ đợi. Cả buông xuôi lẫn nóng vội ở đây đều vô nghĩa, nếu không muốn nói là có hại.
– Tức là, theo ông, hiện tượng dư luận ồn ào quá mức xung quanh một chuyện cá nhân là bất thường?
Không hẳn bất thường. Như người ta vẫn nói, nước mình nó thế. Từ thuở chỉ quanh quẩn trong các làng xã, chúng ta vẫn có lối phản ứng như vậy. Nó là một đặc điểm của tính cách người Việt.
Tôi nhớ, trong một bài báo gần đây, ông Trần Ngọc Thêm (nhà nghiên cứu văn hoá – PV) có nói: Đặc điểm tính cách, người Tây là duy lý, người Tàu là duy ý chí còn người Việt là duy tình. Chữ tình, nói theo chữ của ông Thêm, là lối sống giàu tình cảm, trọng tình nghĩa của người Việt.
Nhiều người cũng nghĩ như ông Thêm.
Phần tôi, tôi cho rằng chỉ nên nói đặc điểm người Việt là tính tự phát rất lớn, thường là những cơn xúc cảm bùng lên, song không trải qua những suy ngẫm nên sẽ qua đi nhanh.
Tức, tôi không coi duy tình là một niềm tự hào. Trái lại, ta phải tính để vượt lên một trình độ sống khác.
– Cụ thể hơn, theo ông, “sự duy tình” có những điểm nào không đáng để tự hào?
Cả sự kém duy lý (vận dụng đến cùng trí tuệ) và kém duy ý chí (sự thôi thúc của tham vọng) đều góp phần kìm hãm sự phát triển của chúng ta.
Kém lý trí dẫn đến nông nổi, cạn nghĩ. Kém ý chí dẫn đến ngắn hơi, ăn xổi. Cái gọi là duy tình rút lại là đồng nghĩa với bột phát, tùy tiện, lúc thế này lúc thế khác, và thường không dẫn đến sự sáng suốt cùng những quyết sách hợp lý, nhất là trong xã hội hiện đại.
Như trong câu chuyện phần trên chúng ta vừa nói: cả các bạn trẻ hiện nay cũng sống truồi theo cảm hứng tự phát, không nghĩ đường xa. Mà dư luận cũng tự phát, ầm ĩ đấy rồi cũng bỏ qua ngay đấy.
Đằng sau nó là những nguyên nhân sâu xa…
Dân tộc Việt là một khối tự phát khổng lồ
– Vậy là, từ một hiện tượng ồn ào trong dư luận hiện nay, ông muốn lưu ý tới những nguyên nhân sâu xa. Liệu có gượng ép quá không?
Tôi không ngại, miễn là chúng ta cùng lắng nghe nhau một chút.
Nhưng, liệu cách nhìn nhận của ông về cốt cách sống của dân mình quá cực đoan và khắt khe? Người Việt xưa nay vẫn tự hào là một dân tộc hiếu học, thông minh và có sức chịu đựng, bền bỉ?
Các phương tiện truyền thông và cả bản thân chúng ta vẫn thường tự ve vuốt mình bằng những nhận định như mấy chữ bạn đã dùng.
Còn tôi, sau một giai đoạn nghiên cứu về văn hoá và tính cách Việt, tôi mạnh dạn sử dụng hình ảnh “một khối tự phát khổng lồ”.
Nói vậy có thể gây tự ái cho ai đó và có thể gây tranh cãi. Ngay như bản thân tôi, cũng đã nhiều lần tự tìm cách phủ định nó, nhưng hiện tại tôi vẫn chưa tìm ra được dẫn chứng phủ định thuyết phục.
Người Việt ít đặt vấn đề dụng công nghiên cứu cái gì cho sâu, cho kỹ. Chúng ta tự cho phép sống theo thói quen, nếu như có nói đến các lý thuyết, các định hướng nọ kia thì chủ yếu là đi thừa hưởng các kết quả nghiên cứu từ các dân tộc khác. Thêm nữa, chỉ treo lý thuyết lên gọi là có, chứ vẫn sống theo cách của mình.
Tôi ví dụ, đơn giản nhất là trong đời sống tôn giáo. Với đạo Phật, chúng ta hiểu biết lơ mơ. Về tất cả các lý thuyết, hầu như không nghiên cứu gì cả, chỉ toàn là truyền miệng với nhau, trong tu thì chỉ “thiền”, “ngộ”, tức là ngồi để tự nhiên nghĩ ra cái gì đấy.
Tôi nghĩ lối sống này làm nghèo chúng ta đi, từ sự trống vắng, kết quả thu được cũng chẳng gì hơn cũng là trống vắng. Trong khi ấy, thử so sánh, người Trung Quốc có không biết bao nhiêu pho kinh, chẳng hạn như ông Huyền Trang sang tận Ấn Độ lấy về, dịch ra, họ đã mang lại cho đạo Phật một sức sống mới.
– Bàn một chút về đặc điểm tính cách dân tộc. Theo ông, có những nguyên nhân nào tác động đến điều này?
Khi nhìn vào những ngổn ngang trong đời sống trước mắt, nhiều người có ý cho rằng đó là bởi các lý thuyết mà chúng ta theo đuổi, chẳng hạn lý tưởng cộng sản… này khác. Tôi thì lại thấy những nguyên nhân sâu xa cơ bản là nằm trong cái cốt cách mà dân tộc đã hình thành trong lịch sử.
Hiểu rõ nguồn gốc dân tộc, sự hình thành của dân tộc mình là một trong những cách để nhận chân lại mình.
Nói một cách thô thiển nhất thì như thế này: mỗi khu vực địa lý tạo ra một giống người với đặc điểm riêng của họ.
Chúng ta là người xứ nóng, vùng nhiệt đới được thiên nhiên ưu đãi, nên một mặt dễ sống, một mặt khác, nó tạo cho ta tính dễ dãi.
Người xứ nóng thường có cuộc sống đơn giản. Trước đây, thời các cụ, chẳng cần có quần áo cũng tồn tại được. Ngay trước Cách mạng tháng Tám, dân ta còn rất nhiều người đi chân đất.
Trong khi đó, người xứ lạnh, thời tiết khắc nghiệt đòi hỏi họ phải chuẩn bị cho cuộc sống cẩn thận hơn. Ngay từ ngôi nhà, đến ăn mặc phải bền chắc hơn, có sức chịu đựng hơn… Tất cả những điều này ảnh hưởng một cách vô thức đến tính cách dân tộc.
“Nuôi dưỡng ảo tưởng”
– Sau những nguyên nhân ban đầu ấy, mọi chuyện đã phát triển ra sao?
Một công cụ để một dân tộc nào đó tư duy, là chữ viết. Việc không hình thành cho được một thứ chữ viết riêng mang lại cho chúng ta rất nhiều hạn chế. Chính nó khuyếch đại thêm cái khía cạnh nông nổi tự phát mà chúng ta nói từ đầu.
Thời trung đại việc dùng chữ Hán đã mang lại cho chúng ta bao thiệt thòi. Rồi sau này, do lịch sử đổi thay, lại dùng chữ hệ Latinh. Lâu nay người ta chỉ thích nhấn mạnh rằng chữ Latinh góp phần thúc đẩy xã hội tiến tới. Tôi cũng thấy thế, nhưng lưu ý thêm chữ quốc ngữ càng làm cho chúng ta cẩu thả trong nói và viết. Nếp tư duy hời hợt lan rộng.
Việt Nam, xét trong lịch sử, là một nước trải qua khá nhiều các cuộc chiến tranh. Yếu tố này có góp phần ảnh hưởng đến cái gọi là tính cách dân tộc không, theo ông?
Tất nhiên rồi. Trên nét lớn, chiến tranh ở ta còn để lại dấu vết nặng nề và càng lảng tránh nó, chúng ta càng bị nó ám.
Không cần có kinh nghiệm nhiều thì người ta cũng có thể biết chiến tranh là tình trạng ăn xổi, ở thì, lúc đó, trong khi sống với những mơ tưởng xa vời, thực tế là người ta lại chả biết rõ ràng ngày mai của mình như thế nào.
– Cụ thể hơn, 2 cuộc chiến lớn của dân tộc trong thế kỷ vừa qua, để lại dấu ấn như thế nào trong đời sống tinh thần người Việt?
Chuyện lớn quá, cho phép tôi chỉ nói một điểm có tính cách xuất phát: phải nói chính ra chiến tranh nuôi dưỡng ảo tưởng. Ta không biết rõ ta đã trở nên như thế nào. Ta tưởng rằng, sau chiến tranh, mình còn nguyên vẹn, nhưng thực ra mình đã mất mát rất nhiều. Nhìn vào nhiều mặt đời sống, tôi cảm thấy so với trước chiến tranh, có một bước lùi. Con người ít tham vọng hơn, dễ dãi với mình hơn mà lại buông thả hơn.
– Ông có cực đoan quá không? Có nhiều ý kiến cho rằng, chính cuộc chiến này đã khơi dậy, đánh thức được tiềm năng của các thế hệ?
Tôi cho rằng, nhận định đó là đúng nhưng chưa đủ, khi nói vậy chúng ta chưa thấy hết sự thực. Cuộc kháng chiến chống Pháp còn vừa sức với dân tộc ta. Còn cuộc chiến chống Mỹ ư? Với tư cách một người vừa lớn lên thì bước vào chiến tranh, tôi muốn nói rằng nó to lớn vĩ đại, nó kinh khủng quá, nó hút hết sức lực của cộng đồng. Chiến tranh ở ta như việc một người nhỏ bé phải đối mặt với một thách thức quá sức. Vẫn làm được đấy, nhưng sau đó sẽ mệt mỏi, một sự mệt mỏi kéo dài cho đến hôm nay.
Việc nghiên cứu tính chất của xã hội hậu chiến ở ta ít được xem trọng. Nhưng nhìn đâu cũng thấy.
Cả việc lớp trẻ lao đầu vào cuộc hưởng thụ lẫn một dư luận xốc nổi, khi quá khắt khe khi quá dễ dãi, tức là câu chuyện mà chúng ta nói từ đầu đến giờ, cũng là hiện tượng thường thấy ở các xã hội hậu chiến.
Nguồn: Vietnam Net
(MINH KHUE LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)