1. Luật Hồi giáo là gì?

Thuật ngữ Hồi giáo (Islam) có nghĩa là “tuân phục”-đó cũng là tư tưởng trung tâm của các tín đồ tôn giáo. Đạo Hồi chính là lời răn dạy của thánh Allah mà Mohammed đã tìm ra và truyền lại cho người đời, điều đó đã được khái quát thông qua lời cầu nguyện: “không có chúa trời nào khác ngoài Allah và Mohammed là tiên tri của Ngài”.

Các tín đồ Hồi giáo sống tuân theo giới luật đạo Hồi (Sharial). Nó không phải là một bộ phận độc lập mà mà được xem là một phần của đạo Hồi, có những quy định như cấm trộm cắp, nói dối, giết người, ngoại tình và uống rượu. Sharial cũng bắt buộc người Hồi giáo phải có đức khoan dung và khiêm tốn, đối xử với nhau một cách công bằng. Như vậy có thể hiểu luật Hồi giáo chính là hệ thống các quy định mang tính tôn giáo của những người theo đạo và các quy định này hoàn toàn độc lập, không chịu sự chi phối của nhà nước, không có quyền lực nào có thể thay thế luật Hồi giáo.

Thuật ngữ Hồi giáo (Islam) có nghĩa là “tuân phục”-đó cũng là tư tưởng trung tâm của các tín đồ tôn giáo. Đạo Hồi chính là lời răn dạy của thánh Allah mà Mohammed đã tìm ra và truyền lại cho người đời, điều đó đã được khái quát thông qua lời cầu nguyện: “không có chúa trời nào khác ngoài Allah và Mohammed là tiên tri của Ngài”.

Các tín đồ Hồi giáo sống tuân theo giới luật đạo Hồi (Sharial). Nó không phải là một bộ phận độc lập mà mà được xem là một phần của đạo Hồi, có những quy định như cấm trộm cắp, nói dối, giết người, ngoại tình và uống rượu. Sharial cũng bắt buộc người Hồi giáo phải có đức khoan dung và khiêm tốn, đối xử với nhau một cách công bằng. Như vậy có thể hiểu luật Hồi giáo chính là hệ thống các quy định mang tính tôn giáo của những người theo đạo và các quy định này hoàn toàn độc lập, không chịu sự chi phối của nhà nước, không có quyền lực nào có thể thay thế luật Hồi giáo.

 

2. Đặc điểm của Luật Hồi giáo

Về nguyên tắc luật Hồi giáo không thay đổi, ổn định mà chỉ có các quan hệ xã hội thay đổi nên nó phải được áp dụng mềm dẻo. Và khó có thể phân biệt giữa các quy định của pháp luật và các quy định của tôn giáo.

Luật Hồi giáo có quan niệm về hành vi không giống các hệ thống pháp luật khác. Theo đó luật Hồi giáo chia hành vi của con người thành 5 loại sau: hành vi buộc phải làm (obligatoire); hành vi nên làm (recommandes); hành vi làm cũng được không làm cũng được (indiffrerentes); hành vi bị khiển trách (blamables); hành vi cấm (interdites). Đây là nguyên tắc đánh giá hành vi của con người vể cả phương diện pháp luật và đạo đức.

Luật Hồi giáo có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các lĩnh vực pháp luật truyền thống như hôn nhân-gia đình, thừa kế, hình sự. Còn trong các lĩnh vực pháp luật khác như hợp đồng sở hữu thì sự ảnh hưởng có phần ít hơn.

 

3. Hệ thống pháp luật Hồi giáo

Hệ thống pháp luật hồi giáo là hệ thống pháp luật gắn liền với đạo Hồi, có nguồn chính là kinh Coran – kinh thánh của người theo Hồi giáo.

Hệ thống pháp luật Hồi giáo chia hành vi con người thành 5 loại: hành vi buộc phải làm; hành vị nên làm; hành vi làm cũng được, không làm cũng được (không đáng kể, không cần lưu ý); hành vị đáng bị chê trách; hành vi bị cấm.

Những quy định của pháp luật Hồi giáo pha trộn giữa quy phạm đạo đức, tôn giáo và quy phạm pháp luật. Nó vừa là cơ sở để xã hội đánh giá hành vi nào là thiện hay ác, vừa là cơ sở pháp lí để Thẩm phán xem xét hành vi hợp pháp hay không hợp pháp.

Do gắn liền với đạo Hồi và có nguồn chính là kinh Coran nên pháp luật Hồi giáo có nhiều nét đặc thù so với các hệ thống pháp luật khác. Chẳng hạn, theo quan niệm của luật Hồi giáo thì tội phạm nặng nhất là tội chống lại chúa, bao gồm 7 loại tội phạm là ngoại tình, vu cáo, uống rượu (tại nơi công cộng cũng như ở nhà riêng), tội trộm, cướp đường, phản đạo, vi phạm kinh thánh. Các tội ngoại tình, vu cáo, uống rượu thì phạt bằng roi; tội trộm thì hình phạt là chặt tay; tội cướp đường bị phạt đóng đính vào thánh giá hoặc cắt cả hai tay và chân; tội phản đạo và vi phạm kinh thánh thì bị chặt đầu. Các tội phạm giết người (cố ý và vô ý), cưỡng dâm, gây thương tích (cố ý và vô ý) được gọi là tội Quesas – tội chống lại cá nhân chứ không phải chống lại chúa nên được coi là ít nghiêm trọng hơn. Tội trộm là tội chống lại chúa nên có hình phạt nặng là chặt tay và không được chuộc bằng tiền, trong khi đó, tội giết người không phải là tội chống lại chúa nên có thể chuộc bằng tiền. Giết một người đàn ông có thể chuộc tội bằng 100 con lạc đà, giết một người phụ nữ có thể chuộc tội bằng 50 con lạc đà. Trong luật tố tụng (hình sự cũng như dân sự) lời thề trước thánh Ala được coi là bằng chứng trung thực. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, trong khi các hệ thống pháp luật khác thiết lập quan hệ hôn nhân một vợ, một chồng thì pháp luật Hồi giáo lại cho phép người đàn ông có bốn vợ. Nhiều chế định pháp luật còn mang nặng tư tưởng phong kiến. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật này cũng đang trên đà cải biến theo xu hướng tiến bộ và hiện đại để phù hợp với ý thức pháp luật, chuẩn mực pháp luật chung của nhân loại.

Hệ thống pháp luật lớn nhất trên thế giới, tồn tại ở các nước lục địa châu Âu và một số nước ngoài châu Âu, có ảnh hưởng rộng khắp tại nhiều nước trên thế giới.

Đây là hệ thống pháp luật chịu ảnh hưởng sâu sắc của Luật La Mã và khoa học pháp lí La Mã, trong đó pháp luật được chia thành công pháp và tư pháp (Xt. Công pháp; Tư pháp).

Hệ thống pháp luật lục địa châu Âu là hệ thống pháp luật thành văn hoàn thiện nhất, có trình độ pháp điển hoá cao trong các hệ thống pháp luật trên thế giới. Khác với hệ thống pháp luật Anglo – Saxon, hệ thống pháp luật này không coi trọng

pháp luật án lệ, không coi nó là hình thức thông dụng và chỉ sử dụng một cách hạn chế. Đối với tập quán pháp cũng có thái độ tương tự.

Hệ thống pháp luật lục địa châu Âu tồn tại ở các nước lục địa châu Âu như Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Áo, Bỉ, Luxembua, Hà Lan, Thụy Sĩ, nhiều nước châu Phi, châu Mĩ Latinh và các nước phương Đông, kể cả Nhật Bản.

 

4. Vì sao Luật Hồi giáo không còn phù hợp với xã hội hiện đại?

Luật Hồi giáo có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Những quy định đó dựa vào nguốn gốc tuyệt đối của thần thánh. Những người trung thành với đạo Hồi cho rằng luật Đạo Hồi sẽ bất diệt, không bao giờ thay đổi , nghĩa là Pháp luật Hồi giáo sẽ là loại hình pháp luật cuối cùng, hoàn thiện nhất và trong tương lai toàn thể loài người sẽ thừa nhận và tuân thủ. Theo quan điểm này, các đạo luật của các nước không thể làm thay đổi luật Hồi giáo mà chỉ có thể điều chỉnh những chi tiết mà Sharia chưa cụ thể hóa hoặc còn bỏ trống.

Điều này khiến nhiều người cho rằng, luật Hồi giáo không thể thay đổi “ đã được khắc vào đá”, được xây dựng trên cơ sở các nguồn luật trên một ngàn năm, không thể sửa đổi cho phù hợp với thế giới hiện đại.

Do đó, Luật Hồi giáo gần như bất di bất dịch. Bên cạnh đó, các quan hệ xã hội ngày càng trở nên phức tạp và đa dạng hơn vì thế luật Hồi giáo không còn phù hợp với xã hội hiện đại.

 

5. Cách để Luật Hồi giáo thích ứng với xã hội hiện đại

– Áp dụng tập quán: Theo luật Hồi giáo, tập quán không phải là nguồn luật, nhưng các luật gia có thể áp dụng tập quán để lấp những chỗ trống trong luật Hồi giáo. Thông thường, đó là những tập quán liên quan đến các giá trị và cách thức thanh toán của hồi môn, việc sử dụng nguồn nước giữa hai chủ sở hữu đất, hoặc tập quán trong lĩnh vực thương mại. Tuy nhiên, những tập quán đó phải phù hợp với luật Hồi giáo.

Theo quy định của pháp luật Hồi giáo hôn nhân dựa trên cơ sở hợp đồng. Hợp đồng hôn nhân là hợp đồng giữa chú rể và người đàn ông có quan hệ ruột thịt thân thiết với cô dâu. Theo đó chú rể đồng ý trả một khoản tiền nhất định để có cô dâu. Trến thực tế không có số tiền nào được thanh toán bởi số tiền đó chính là của hồi môn của cô dâu. Pháp luật Hồi giáo không thừa nhận hình thức sở hữu chung, nên người vợ, khi li dị có quyền mang tất cả của hồi môn theo nghĩa là người chồng bị buộc phải trả toàn bộ số tiền đó. Nếu thoạt nhìn, truyền thống này coi người phụ nữ như món hàng hóa có thể mua bán nhưng trên thực tế lại có mục đích hoàn toàn khác và vì lợi ích của người phụ nữ.

– Sử dụng các thủ thuật pháp lí điều khoản mang tính bắt buộc để loại bỏ các quy định đã lạc hậu. Trong luật Hồi giáo, có rất ít điều khoản mang tính bắt buộc mà luật dành cho quyền tự do của con người trong một phạm vi rất rộng. Do đó, để thích nghi với cuộc sống hiện tại, các luật gia có thể tăng cường sử dụng các thỏa thuận giữa các tư nhân để lẩn tránh các quy định pháp luật không còn phù hợp.

Chẳng hạn: Luật Hồi giáo chỉ trao quyền li hôn cho người chồng mà không cho người vợ. Sự phân biệt đối xử này có thể được sửa chữa bằng cách: khi kết hôn, người chồng trao cho người vợ một ủy quyền không hủy ngang cho phép người vợ, nếu muốn, được ly dị thay mặt người chồng. Mặt khác khi lấy nhau, người chồng có thể bị buộc tuyên bố từ bỏ quyền li dị vợ nhưng nghịch lí là ở chỗ, hiệu lực của lời tuyên bố này chỉ có được nếu họ thỏa thuận lấy nhau tạm thời chẳng hạn trong khoảng 90 năm.

Cũng để giải quyết vấn đề nêu trên, các luật gia Hồi giáo có thể sử dụng thủ thuật pháp lí khác, chẳng hạn: quy định bằng văn bản pháp luật theo đó cho người vợ được hưởng một khoản bồi thường rất lớn, nếu người vợ bị chồng bỏ rơi một cách bất công hoặc người chồng đối xử với mình bất bình đẳng.

Luật Hồi giáo cấm giao kết hợp đồng cho vay lãi (quy định Riba). Nhưng người ta có thể lẩn tránh điều cấm kị này bằng cách đưa cho chủ nợ hưởng một phần thu nhập – với danh nghĩa vật bảo đảm hoặc thỏa thuận phân chia lợi nhuận, bán trả chậm theo cách nào đó. Mặt khác, cũng có thể quan niệm rằng việc cấm cho vay lãi chỉ liên quan đến thể nhân và thể nhân này là người có tội. Còn pháp nhân (ngân hàng, quỹ tiết kiệm, công ty) có thể không bị ràng buộc bởi quy phạm này.

Luật Hồi giáo cấm giao kết hợp đồng cho thuê đất. Nhưng người ta có thể giao kết hợp đồng sử dụng chung đất đai để thay thế cho hợp đồng cho thuê đất.

– Áp dụng các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành(các Quyết định hành chính, các văn bản pháp luật của các Bộ,..) Theo đạo Hồi, nhà vua không phải là ông chủa của pháp luật mà là đầy tớ của pháp luật. Do đó nhà vua phải quản lí đất nước nên luật Hồi giáo thừa nhận tính hợp pháp của các văn bản pháp luật do nhà vua và những người có thẩm quyền ban hành.