Nguyễn Trọng Nghĩa – Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính
Trịnh Hà Mai Long – Chuyên viên Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính
Hồ Thị Hằng – Chuyên viên Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính
Nguyễn Thị Việt Anh – Chuyên viên Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính
Đặng Công Khôi – Chuyên viên Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính
Nguyễn Văn Tùng – Chuyên viên Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính
PHẦN THỨ NHẤT
CẢI CÁCH THUẾ GIAI ĐOẠN 1990 ĐẾN NAY
Thực hiện đường lối của Đảng về đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từ năm 1990 đến nay, Nhà nước ta tiến hành công cuộc cải cách thuế (cải cách thuế bước I: 1990-1995, cải cách thuế bước II: từ 1996 đến nay). Cải cách thuế đã được thực hiện cả về chính sách thuế và công tác quản lý thuế.
I. CÁC KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Về chính sách thuế
1.1) Hình thành một hệ thống chính sách thuế bao quát được hầu hết các nguồn thu, áp dụng thống nhất đối với mọi thành phần kinh tế và từng bước thích ứng với yêu cầu chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính sách thuế gồm: 9 sắc thuế cơ bản (thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế tài nguyên; thuế nhà đất; thuế chuyển quyền sử dụng đất). Ngoài ra, còn một số loại thu dưới hình thức phí và lệ phí.
1.2) Hệ thống chính sách thuế đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo.
– Góp phần đưa tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm (từ năm 1995 đến năm 2005) tăng hơn gấp đôi (2,07 lần).
– Thúc đẩy xuất khẩu, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm: bình quân hàng năm trên 21% gấp gần 3 lần mức tăng trưởng GDP, sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến tăng từ 8% năm 1991 lên 40% năm 2000. Nhờ xuất khẩu tăng, về cơ bản đã bảo đảm được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu thiết bị, vật tư, nguyên nhiên vật liệu, hàng hoá cần thiết cho nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống nhân dân.
1.3) Hệ thống chính sách thuế được ban hành dưới hình thức luật, pháp lệnh tạo cơ sở pháp lý cao để động viên một phần thu nhập của doanh nghiệp, dân cư vào ngân sách nhà nước làm cho dự toán thu ngân sách nhà nước luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra. Nhờ đó đã bảo đảm nhu cầu chi thường xuyên, dành một phần tăng chi đầu tư phát triển, chi trả nợ, góp phần kiềm chế lạm phát ở mức độ cho phép.
Tổng thu thuế và phí luôn hoàn thành vượt mức dự toán thu hàng năm được Quốc hội thông qua và có tốc độ tăng trưởng cao qua các năm: Năm 2000 tăng 13,7 lần so với năm 1990. Số thu về thuế và phí trong tổng thu ngân sách nhà nước năm 1990 chỉ chiếm 76,78%, đến năm 2003 đã chiếm 92,9%. Tỷ lệ động viên qua thuế và phí/GDP đã đạt và vượt mục tiêu đề ra: năm 1991 đạt 13,1% GDP, đến năm 2000 đạt 19,7% GDP và đến năm 2003 đạt 21,8% GDP.
1.4) Hệ thống chính sách thuế đã xoá bỏ sự chênh lệch về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế trong nước; thu hẹp chênh lệch về nghĩa vụ thuế giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong cơ chế thị trường.
1.5) Trong hợp tác quốc tế về thuế đã đạt được các thành tựu chủ yếu là:
a. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thuế đã mở rộng hiểu biết, tích luỹ kinh nghiệm… ứng dụng chính sách thuế tiên tiến và quản lý thuế hiện đại của quốc tế vào hệ thống thuế Việt Nam. Qua đó, hệ thống chính sách thuế Việt Nam từng bước được hoàn thiện và phù hợp với yêu cầu của hội nhập.
b. Vừa bảo hộ được sản xuất trong nước, vừa chủ động thực hiện chính sách mở cửa để thu hút đầu tư, tự do hoá thương mại, thực hiện lộ trình cam kết về thuế với các nước ASEAN, EU, Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế khác.
c. Đã đàm phán và ký Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với 42 nước, tạo cơ sở pháp lý để các nhà đầu tư nước ngoài, người nước ngoài đến Việt Nam kinh doanh sinh sống không bị đánh thuế trùng lắp, thực sự được hưởng chính sách ưu đãi thuế của Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; thu hút các nhà nghiên cứu, các giáo sư, các chuyên gia nước ngoài đầu tư chất sám vào Việt Nam.
1.6) Hệ thống chính sách thuế từng bước tiến tới đơn giản, rõ ràng, tạo điều kiện giảm chi phí hành chính thuế cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế.
1.7) Tăng cường quản lý hạch toán kinh doanh trong từng doanh nghiệp, thúc đẩy việc tổ chức và sắp xếp lại doanh nghiệp.
Luật sư tư vấn luật Đất đai qua điện thoạigọi số: 1900.0191
2. Về công tác quản lý thuế
2.1. Các nội dung về quản lý thuế đã được quy định trong các văn bản pháp luật về thuế tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện quản lý thuế Các quy định về quản lý thuế đã được hình thành trong quá trình xây dựng thể chế chính sách thuế. Tại các văn bản quy phạm pháp luật của từng sắc thuế, ngoài việc quy định về chính sách thuế (đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế) còn quy định về quản lý thuế, cụ thể như sau:
2.1.1. Các văn bản pháp luật về từng sắc thuế đã quy định về thủ tục đăng ký thuế; cấp mã số thuế; thủ tục về mua hoá đơn, chứng từ; thủ tục về kê khai thuế; thời hạn nộp thuế; thủ tục về quyết toán thuế; thời hạn nộp quyết toán thuế; thủ tục hoàn thuế; thủ tục miễn giảm thuế; quy định mức phạt vi phạm về thuế; quy định về các trường hợp bị cưỡng chế thuế.
2.1.2. Quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện các thủ tục về thuế, chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ; chấp hành việc cung cấp tài liệu liên quan đến việc tính thuế, kê khai thuế, nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan thuế; đối tượng nộp thuế có quyền khiếu nại về thuế khi cơ quan thuế, cán bộ thuế có hành vi hành chính hoặc quyết định xử lý gây tổn hại đến lợi ích của đối tượng nộp thuế.
2.1.3. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc: hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện đúng chính sách thuế; hướng dẫn các thủ tục về thuế; hướng dẫn ghi chép sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ; giải quyết hoàn thuế, miễn, giảm thuế, khiếu nại về thuế; thanh tra, kiểm tra về thuế; xử phạt vi phạm hành chính về thuế; ấn định thuế và cưỡng chế thuế.
2.1.4. Trong các luật thuế cũng có quy định chung về nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân đó là: “các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát, phối hợp với cơ quan thuế trong việc thi hành luật thuế”.
Việc quy định về nội dung quản lý thuế nêu trên trong các văn bản quy phạm pháp luật về từng sắc thuế đã tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan thuế; cơ quan hải quan tổ chức quản lý thuế, thực hiện nhiệm vụ được giao trong thời gian qua.
2.2. Về thủ tục hành chính thuế đã từng bước được cải cách theo hướng đơn giản, rõ ràng, công khai; thời gian giải quyết các công việc về thuế được rút ngắn tạo thuận lợi cho người nộp thuế
Các thủ tục về thuế: đăng ký cấp mã số thuế, kê khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn, giảm thuế được quy định tại các văn bản dưới luật (Nghị định, Thông tư) được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, công khai tại trụ sở cơ quan thuế và được in thành sách, tờ rơi phát miễn phí để mọi thành viên trong xã hội có điều kiện tìm hiểu bảo đảm thực hiện tốt các thủ tục về thuế, đồng thời giám sát cơ quan thuế trong việc giải quyết các công việc liên quan đến các thủ tục về thuế.
Các thủ tục về thuế được ban hành đã từng bước được đơn giản, thời gian giải quyết các công việc về thuế nhanh chóng hơn theo tinh thần cải cách hành chính của Nhà nước nhất là những năm gần đây; cụ thể:
– Việc thống nhất giữa cơ quan thuế và cơ quan hải quan về đăng ký cấp mã số thuế cho cơ sở kinh doanh đã giảm thủ tục kê khai và thời gian cấp mã số thuế xuống chỉ còn 1/3 thời gian so với trước đây.
– Các thủ tục về thuế như kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế, miễn, giảm thuế, hoàn thuế ngày càng được quy định rõ ràng, đơn giản, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cơ sở kinh doanh. Đối với việc miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh tự xác định điều kiện ưu đãi thuế, mức thuế suất ưu đãi, thời gian miễn, giảm thuế theo quy định của các văn bản pháp luật và thông báo cho cơ quan thuế biết; không cần phải làm thủ tục xin miễn, giảm thuế. Thời gian giải quyết các công việc về thuế nhanh hơn, trừ một số hồ sơ hoàn thuế có vướng mắc về hoá đơn, chứng từ đầu vào.
– Đã khuyến khích các cơ sở kinh doanh sử dụng hoá đơn tự in bằng cách đơn giản thủ tục đề nghị tự in hoá đơn; phân cấp cho các cục thuế được duyệt mẫu và số lượng hoá đơn tự in cho các cơ sở kinh doanh trên địa bàn.
– Thời gian kiểm tra thuế, thanh tra thuế bảo đảm được theo quy định của văn bản pháp luật của thanh tra, kiểm tra, tránh được tình trạng kéo dài, gây phiền hà cho cơ sở kinh doanh.
2.3. Ý thức tuân thủ pháp luật về thuế ngày càng được nâng cao; vai trò của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác thuế từng bước được tăng cường
Nhờ làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật thuế, những năm qua ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế đã được nâng cao. Nhiều tổ chức, cá nhân hoàn thành tốt nghĩa vụ thuế đã được các cơ quan nhà nước tôn vinh. Đến nay, đã có 30.817 các tổ chức, cá nhân nộp thuế được khen thưởng về thành tích kinh doanh giỏi, nộp thuế tốt.
Dư luận xã hội ngày càng quan tâm nhiều đến công tác thuế; tích cực phối hợp với cơ quan thuế trong việc tuyên truyền, vận động thực hiện pháp luật thuế, lên án các hành vi trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế, chây ì nộp thuế.
2.4. Công tác quản lý thuế từng bước được kiện toàn; hiệu lực thực hiện luật pháp thuế được tăng cường; nguồn thu thuế của Nhà nước được bảo đảm
2.4.1. Bộ máy tổ chức quản lý thu thuế (cơ quan thuế, cơ quan hải quan) được tổ chức theo hệ thống dọc từ trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện đảm bảo việc chỉ đạo, thực hiện các biện pháp quản lý thống nhất trong cả nước.
Cơ quan thuế thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện thu các khoản thu nội địa bao gồm thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước. Cơ quan hải quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt khâu nhập khẩu.
Cơ quan hải quan đã được tổ chức theo hệ thống dọc kể từ khi thành lập nước (năm 1945) đến nay. Hệ thống hải quan không ngừng được củng cố phát triển và hoàn thiện, đảm đương được nhiệm vụ quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu; thu các loại thuế như: thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt tại khâu nhập khẩu.
Đối với ngành thuế được thành lập từ năm 1990 theo hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương trên cơ sở sáp nhập 3 tổ chức (thu quốc doanh, thu thuế công thương nghiệp và thu thuế nông nghiệp) chịu sự lãnh đạo song trùng của Bộ Tài chính và chính quyền địa phương các cấp. Tổ chức này không ngừng hoàn thiện phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới. Đến nay cơ quan thuế đang tổ chức theo chức năng kết hợp với việc quản lý đối tượng nộp thuế. Trình độ chuyên môn, năng lực điều hành, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ thuế và hải quan không ngừng được nâng lên thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều hình thức.
2.4.2. Cơ chế quản lý thuế ngày càng được hoàn thiện phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế; phù hợp trình độ quản lý của cơ quan thuế, hải quan và cán bộ thuế, hải quan.
Về cơ chế quản lý thuế nội địa trong thời gian qua đã được đổi mới một bước, chuyển từ chế độ chuyên quản khép kín (từ tính thuế, đôn đốc thuế, kiểm tra thuế) sang theo chức năng tách 3 bộ phận: Bộ phận kiểm tra tờ khai và phát hành thông báo thuế; bộ phận đôn đốc thu nộp; bộ phận thanh tra, kiểm tra. Kể từ ngày 01/01/2004 bỏ thông báo của cơ quan thuế đối với các loại thuế: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, làm tiền đề cho ngành thuế tổ chức thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp thuế nhằm nâng cao tính tự giác tuân thủ pháp luật của đối tượng nộp thuế. Theo cơ chế này, cơ quan thuế tập trung nguồn lực để thực hiện các chức năng tuyên truyền và hỗ trợ đối tượng nộp thuế; tiếp nhận và xử lý tờ khai thuế; thanh tra, kiểm tra thuế; quản lý thu nợ thuế. Để thực hiện cơ chế này, cơ quan thuế xây dựng lại các quy trình quản lý thuế phù hợp với chức năng nêu trên.
Đối với thuế xuất nhập khẩu, ngành hải quan đã thực hiện cơ chế người nộp thuế tự tính, tự khai và nộp thuế theo thông báo. Việc kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu được phân loại theo mức độ tín nhiệm: có trường hợp không cần phải kiểm tra; có trường hợp kiểm tra mẫu; có trường hợp phải kiểm tra 100%.
2.4.3. Đã xây dựng được hệ thống quy trình quản lý thuế bao gồm các quy trình sau: quản lý thuế đối với từng sắc thuế; tuyên truyền, hỗ trợ cho người nộp thuế; quản lý thuế đối với doanh nghiệp; quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể; cấp mã số thuế; bán hoá đơn; quy trình quản lý biên lai ấn chỉ; hoàn thuế; miễn, giảm thuế; thanh tra, kiểm tra thuế; kiểm tra thuế xuất nhập khẩu; kiểm tra hàng hoá và thuế nhập khẩu sau thông quan… Các quy trình này được áp dụng thống nhất tại cơ quan thuế và hải quan các cấp trong cả nước.
Thủ tục hành chính thuế đã từng bước được cải cách theo hướng đơn giản, rõ ràng, được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và tại trụ sở cơ quan thuế. Thời gian giải quyết các công việc về thuế liên quan đến người nộp thuế đã được rút ngắn tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế.
2.4.4. Thực hiện phân cấp quản lý thuế để nâng cao trách nhiệm và giảm chi phí quản lý của cơ quan thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế. Cụ thể:
– Xác định rõ tiêu chí để cục thuế phân cấp quản lý thuế đối với doanh nghiệp dân doanh cho chi cục thuế (trước đây tập trung quản lý thuế tại cục thuế).
– Cục thuế phân cấp quản lý thu lệ phí trước bạ đối với: ô tô, xe máy, tàu thuyền, nhà đất cho chi cục thuế.
– Các chi cục thuế đang thực hiện thí điểm uỷ nhiệm cho các Ủy ban nhân dân xã, phường thu thuế đối với hộ kinh doanh nhỏ nộp thuế theo mức ổn định cả năm; thuế sử dụng đất; thuế đối với các hoạt động xây dựng tư nhân, vận tải tư nhân; thuế đối với đánh bắt hải sản…
Do ưu điểm của công tác quản lý thuế nêu trên, nhiều năm qua ngành thuế và ngành hải quan luôn hoàn thành vượt mức dự toán thu ngân sách Quốc hội giao; đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên của đất nước; giành một phần cho chi đầu tư phát triển và trả nợ; góp phần kiềm chế lạm phát. Tốc độ tăng trưởng thuế và phí qua các năm đều tăng: 1991/1990: 166,7%; 1995/1994: 134,8%; 2000/1999: 107,6%; 2001/2000: 114%; 2002/2001:111,8%; 2003/2002: 113%; 2004/2003: 112,4%; 2005/2004: 116,6%. Số thu từ thuế và phí chiếm trong tổng thu ngân sách nhà nước: 1990: 76,8%; 1995: 94,9%; 2000: 95,72%; 2001: 95,32%; 2002: 94,4%; 2003: 92,9%; 2004: 94,2%; 2005: 95,7%. Tỷ lệ động viên thuế và phí /GDP đã đạt được mục tiêu đề ra: 1991: 13,1% GDP; 1995: 22,1% GDP; 2000: 19,7% GDP; 2001: 20,4% GDP; 2002: 20,9% GDP; 2003: 21,8% GDP; 2004: 21,9% GDP; 2005: 23,5% GDP.
II. MỘT SỐ HẠN CHẾ
1. Về chính sách thuế
1.1) Hệ thống chính sách thuế chưa bao quát hết đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế. Nguyên nhân là do khi xây dựng chính sách thuế chưa nhận thức hết phạm vi điều chỉnh của từng sắc thuế và chưa lường hết các nguồn thu sẽ phát sinh trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong quá trình thực hiện chưa sâu sát thực tế, chưa phát hiện và đề xuất kịp thời các biện pháp để thu các khoản thu nhập mới phát sinh vào ngân sách nhà nước như các khoản thu nhập từ chuyển nhượng đất đai, nhà cửa và một số khoản thu nhập khác của tổ chức, cá nhân…
1.2) Hệ thống chính sách thuế còn nhiều mức thuế suất nên chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong sản xuất kinh doanh.
1.3) Một số chính sách thuế như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt còn nặng về bảo hộ sản xuất trong nước. Các mặt hàng mới được sản xuất trong nước đều được bảo hộ bằng mức thuế nhập khẩu cao. Các ngành kinh tế chưa có chiến lược phát triển dài hạn, đặc biệt là các ngành kinh tế quan trọng, do đó việc bảo hộ bằng thuế còn thiếu sự chọn lọc, thậm chí nhiều mặt hàng còn bảo hộ quá mức, đặc biệt là ngành sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước, mặc dù được bảo hộ ở mức cao và trong thời gian dài nhưng vẫn chưa hình thành được ngành công nghiệp sản xuất ô tô như mong muốn. Do việc bảo hộ như trên nên các doanh nghiệp chưa chủ động sắp xếp lại sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý để tăng sức cạnh tranh của mình.
1.4) Hệ thống chính sách thuế chưa thực sự bảo đảm bình đẳng, công bằng xã hội về nghĩa vụ thuế, còn có sự phân biệt về thuế suất, điều kiện ưu đãi, mức, thời gian miễn giảm thuế giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; giữa người Việt Nam với người nước ngoài.
1.5) Hệ thống chính sách thuế vẫn còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội, còn nhiều mức miễn, giảm thuế làm hạn chế tính trung lập, không đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế, dễ phát sinh tiêu cực, làm phức tạp công tác quản lý thuế.
2. Về công tác quản lý thuế
Bên cạnh những ưu điểm về quản lý thuế nêu trên, tình trạng trốn thuế, nợ đọng thuế còn khá phổ biến ở nhiều khoản thu, sắc thuế và diễn ra ở khắp các địa phương trong cả nước. Tình trạng trốn thuế, chây ì nộp thuế nêu trên không những làm thất thu cho ngân sách nhà nước mà còn tạo ra sự không bình đẳng, công bằng xã hội và bình đẳng cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Nguyên nhân trước hết là do người nộp thuế chưa hiểu sâu sắc về trách nhiệm nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước và đặc biệt là quyền thụ hưởng lợi ích từ tiền thuế do mình đóng góp, nên tính tuân thủ pháp luật về thuế chưa cao. Sau đó là các quy định về quản lý thuế trong các văn bản pháp luật về thuế chưa được đầy đủ, rõ ràng và việc tổ chức quản lý thuế của cơ quan thuế, cơ quan hải quan còn có những nhược điểm, hạn chế như sau:
2.1. Các thủ tục về quản lý thuế được ban hành chủ yếu dưới hình thức Nghị định, Thông tư, Quyết định để hướng dẫn thi hành từng luật thuế nên tính pháp lý chưa cao
Các thủ tục về quản lý thuế được quy định chung, mang tính nguyên tắc trong từng luật thuế. Các thủ tục về thuế như: Đăng ký thuế, cấp mã số thuế, mua hoá đơn, tự in hoá đơn sử dụng, kê khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế, miễn, giảm thuế, thanh tra, kiểm tra thuế, xử phạt vi phạm hành chính thuế chỉ được quy định, hướng dẫn cụ thể trong các văn bản dưới luật (Nghị định, Thông tư) theo từng sắc thuế, khoản thu nên tính pháp lý không cao; chưa buộc người nộp thuế, cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân khác tuân thủ pháp luật một cách tự giác.
2.2. Các quy định về quản lý thuế còn chưa thống nhất và phân tán tại nhiều luật
Các nội dung về quản lý thuế được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với từng sắc thuế nên không đảm bảo tính thống nhất. Có loại thuế kê khai, nộp thuế theo từng tháng (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên); có loại thuế kê khai theo năm (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao), tạm nộp theo quý (thuế thu nhập doanh nghiệp), tạm nộp theo tháng (thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao); có loại thuế nộp hai kỳ trong năm (thuế nhà đất) và có loại thuế nộp 01 lần vào đầu năm (thuế môn bài); có loại thuế nộp theo lần phát sinh như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu nhập khẩu; thuế chuyển quyền sử dụng đất; lệ phí trước bạ…
Có loại thuế quy định mức phạt chậm nộp là 0,1% /ngày trên số tiền chậm nộp thuế, nộp phạt (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt); có loại thuế không quy định mức phạt chậm nộp như thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế nhà đất, thuế tài nguyên, lệ phí trước bạ. Có loại thuế thì quy định mức phạt trốn thuế từ 1 đến 5 lần số thuế gian lận (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp); có loại thuế chỉ quy định mức phạt cao nhất là 2 lần số thuế gian lận (thuế sử dụng đất nông nghiệp…).
Vì vậy, việc thực hiện pháp luật thuế của người nộp thuế và của cơ quan thuế, cơ quan hải quan gặp nhiều khó khăn, nhất là các cơ sở kinh doanh phải nộp nhiều loại thuế. Bên cạnh đó, việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục về pháp luật thuế và sự giám sát của nhân dân, các cơ quan nhà nước trong việc chấp hành các thủ tục về thuế của đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế cũng khó thực hiện.
2.3. Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể tham gia quản lý thuế chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế
2.3.1. Người nộp thuế chưa được quy định các quyền như: yêu cầu cơ quan thuế hướng dẫn, giải thích về chính sách thuế, thủ tục hành chính thuế để tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của mình; yêu cầu cơ quan thuế thực hiện đúng việc miễn, giảm thuế; hoàn thuế; bồi thường thiệt hại về thuế theo quy định của pháp luật để đảm bảo lợi ích hợp pháp của mình; yêu cầu cơ quan thuế giữ bí mật thông tin do mình và các tổ chức, cá nhân khác cung cấp phục vụ cho việc quản lý thuế…
Về nghĩa vụ của người nộp thuế: Trong các văn bản pháp luật hiện hành chưa quy định nghĩa vụ người nộp thuế phải đăng ký thuế; sử dụng mã số thuế; kê khai thuế; chấp hành chế độ kế toán, thống kê; sử dụng hoá đơn, chứng từ; cung cấp thông tin cho cơ quan thuế…
2.3.2. Cơ quan quản lý thuế chưa được quy định đủ quyền xử phạt vi phạm hành chính, quyền cưỡng chế thuế và quyền điều tra xử lý các vi phạm pháp luật về thuế.
a) Chưa có quy định cơ quan thuế có quyền được yêu cầu các tổ chức, cá nhân nộp thuế và các tổ chức, cá nhân khác cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế.
b) Trong các luật, pháp lệnh thuế đều có quy định về mức phạt vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa cụ thể nên việc thực hiện còn hạn chế.
Về mức phạt vi phạm hành chính: quy định chưa có tính khả thi, mức phạt còn cao (phạt chậm nộp thuế 0,1% mỗi ngày trên số tiền chậm nộp; phạt trốn thuế từ 1 – 5 lần số thuế trốn) nên người nộp thuế khó chấp hành được. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về thuế: được thực hiện theo Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/2/2004 quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. Trong đó thủ trưởng cơ quan thuế phạt vi phạm hành chính cao nhất là 100 triệu đồng. Trên 100 triệu đồng thuộc quyền của chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố. Nhưng thực tế từ khi có Nghị định số 100/2004/NĐ-CP, chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp hầu như chưa có quyết định về việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế theo thẩm quyền. Trong khi đó trong các luật thuế đều quy định việc khai man, trốn thuế thì tuỳ theo tính chất mức độ vi phạm bị phạt tiền từ 1 đến 5 lần số tiền thuế gian lận. Do vướng về thẩm quyền nhiều trường hợp cơ quan thuế chỉ dám phạt 1 lần đảm bảo số tiền phạt theo đúng thẩm quyền (dưới 100 triệu đồng). Việc phạt như trên không mang tính chất giáo dục, răn đe nên hiệu lực pháp luật về thuế bị giảm sút.
c) Về biện pháp cưỡng chế thuế đã được quy định trong các văn bản pháp luật thuế nhưng chưa được quy định cụ thể trình tự, thủ tục cưỡng chế thuế; trách nhiệm của cơ quan pháp luật và các tổ chức cá nhân có liên quan phải phối hợp với cơ quan thuế trong việc cưỡng chế thuế nên trong quá trình quản lý thuế cơ quan quản lý thuế chưa thực hiện được các biện pháp cưỡng chế: giữ hàng hoá, tang vật để thu đủ tiền thuế, tiền phạt hoặc kê biên tài sản theo quy định của pháp luật để thu đủ số thuế, số tiền phạt còn thiếu. Riêng biện pháp trích tiền gửi của cơ sở kinh doanh tại ngân hàng, tổ chức tín dụng để nộp thuế, nộp phạt cũng không được thực hiện nghiêm túc. Từ năm 1999 đến nay, cơ quan quản lý thuế đã có gần 2000 quyết định trích tiền gửi của cơ sở kinh doanh tại ngân hàng, tổ chức tín dụng để thu thuế nhưng chỉ có 10% quyết định được thực hiện do các ngân hàng, tổ chức tín dụng lấy lý do giữ bí mật thông tin số tiền trong tài khoản và bảo vệ khách hàng theo Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
d) Hiện nay cơ quan quản lý thuế của nước ta chưa được giao quyền điều tra xử lý các vi phạm về thuế nên chưa ngăn chặn, phát hiện xử lý có hiệu quả hành vi trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước. Thực tiễn ở nước ta và kinh nghiệm các nước trên thế giới thì bên cạnh các tổ chức, cá nhân tuân thủ tự giác nghĩa vụ thuế còn có một bộ phận tổ chức, cá nhân cố tình trốn thuế, gian lận, chiếm đoạt tiền thuế bằng nhiều thủ đoạn tinh vi như kê khai không đúng, không đủ số thuế phải nộp, lập hồ sơ, chứng từ giả, kê khai khống để trốn thuế, chiếm đoạt tiền thuế dưới nhiều hình thức. Có nhiều hành vi tội phạm về thuế không chỉ diễn ra ở một đơn vị, cá nhân mà tổ chức, móc nối giữa nhiều tổ chức với nhau, giữa các địa phương trong phạm vi một nước, thậm chí liên quan đến nhiều quốc gia khác. Vì vậy, nếu không tổ chức điều tra thuế thì không thể phát hiện, xử lý truy thu và ngăn chặn kịp thời, đầy đủ các hành vi vi phạm về thuế.
Cơ quan thuế là cơ quan có chức năng chủ yếu là quản lý thuế, có đủ nguồn nhân lực, được đào tạo đầy đủ về nghiệp vụ quản lý thuế, nghiệp vụ kế toán tài chính, trực tiếp quản lý nắm giữ các thông tin về thuế, có sự hợp tác về thuế giữa các cơ quan thuế với nhau và giữa các nước để hỗ trợ cho nhau. Vì vậy, hầu hết các nước trên thế giới đều giao nhiệm vụ điều tra, khởi tố các vụ vi phạm về thuế cho cơ quan thuế. Thậm chí có nước còn tổ chức lực lượng cảnh sát thuế; toà án thuế để xét xử những vụ vi phạm pháp luật về thuế.
Ở nước ta, cơ quan thuế do chưa được giao quyền điều tra các hành vi tội phạm về thuế nên hầu hết các vụ vi phạm đều phải chuyển sang cơ quan pháp luật để điều tra, khởi tố vụ án. Nhưng cơ quan công an do hạn chế về lực lượng, không thông thạo về chuyên môn nghiệp vụ, không trực tiếp quản lý thông tin về thuế nên quá trình điều tra thuờng bị chậm trễ, dẫn đến truy thu tiền thuế trốn, tiền thuế chiếm đoạt không kịp thời, tác dụng răn đe, ngăn chặn các vi phạm pháp luật về thuế bị hạn chế.
2.3.3. Chưa quy định đầy đủ, rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện pháp luật thuế
Các luật thuế hiện hành chỉ quy định chung trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát, phối hợp với cơ quan thuế trong việc thi hành các luật thuế mà chưa quy định trách nhiệm của từng đối tượng trên một cách cụ thể:
a) Chưa quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin liên quan đến người nộp thuế cho cơ quan thuế như: cơ quan cấp đăng ký kinh doanh phải cung cấp danh sách, địa điểm kinh doanh của các đối tượng đã được cấp đăng ký kinh doanh. Cơ quan ngân hàng và các tổ chức tín dụng cung cấp các hoạt động giao dịch thông qua tài khoản của cơ sở kinh doanh; cơ quan quản lý xuất nhập cảnh cung cấp thông tin về xuất nhập cảnh của người nước ngoài liên quan đến thời gian tính thuế thu nhập cá nhân; cơ quan địa chính cung cấp về bản đồ địa chính, hoạt động chuyển nhượng đất đai…liên quan đến việc thu thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất và thuế tài sản sau này.
Do chưa quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp thông tin cho cơ quan thuế, nên cơ quan thuế chủ yếu dựa vào nguồn thông tin do người nộp thuế cung cấp thông qua việc đăng ký thuế, kê khai thuế. Với các thông tin như hiện nay thì không đáp ứng được yêu cầu của quản lý thuế trong tình hình mới.
Nội hàm của phương thức quản lý thuế tiên tiến là thực hiện cơ chế người nộp thuế tự khai, tự tính thuế, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm về việc kê khai nộp thuế với Nhà nước. Khi áp dụng phương thức quản lý này rất cần các nguồn thông tin về người nộp thuế nhằm giám sát được các căn cứ kê khai, tính thuế của người nộp thuế để tổng hợp, phân tích, đánh giá mức độ tín nhiệm của người nộp thuế, phân loại đối tượng nộp thuế để tập trung quản lý. Phương thức quản lý nêu trên không làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu quản lý về thuế đầy đủ, chính xác đáp ứng mục tiêu quản lý công khai, công bằng và minh bạch. Vì vậy trong các văn bản pháp luật về thuế cần quy định cụ thể chế độ và trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin của các tổ chức, cá nhân về người nộp thuế cho cơ quan thuế.
b) Quy định chưa rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc cùng tham gia quản lý thuế. Hiện tại các văn bản dưới luật có quy định nhưng mới chỉ ở mức độ là giám sát, phối hợp với cơ quan thuế trong việc thực hiện luật nên sự phối hợp này có lúc không được thường xuyên, chặt chẽ nhất là trong việc xử phạt về thuế, cưỡng chế thuế, lên án các hành vi gian lận và trốn thuế.
c) Chưa có quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân đang nắm giữ tiền, tài sản của người nộp thuế hoặc người đang nợ tiền của người nộp thuế trong việc trả nợ người nộp thuế khi người nộp thuế còn nợ tiền thuế của Nhà nước bằng hình thức nộp thay người nợ thuế tương ứng với khoản tiền nợ hoặc tài sản đang nắm giữ. Việc quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân nắm giữ tiền, tài sản của người nộp thuế phải nộp thuế thay khi người nộp thuế còn nợ tiền thuế mới bảo đảm cho việc thực hiện cưỡng chế có hiệu quả; tránh việc người nợ thuế tẩu tán tiền, tài sản bỏ trốn; người thừa kế tài sản phải nộp thuế thay cho người đã chết hoặc mất tích còn nợ thuế…
2.4. Về tổ chức bộ máy quản lý thuế và cán bộ thuế
Về tổ chức bộ máy quản lý thuế, hải quan giai đoạn vừa qua đã được củng cố, hoàn thiện nhưng vẫn còn cồng kềnh, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận. Tổ chức bộ máy của cơ quan thuế chưa kết hợp tốt quản lý theo đối tượng và theo chức năng. Công việc như thanh tra, kiểm tra thì có tới 2 bộ phận đều làm (bộ phận thanh tra, kiểm tra và bộ phận quản lý đối tượng nộp thuế). Nhưng chức năng như: tiếp nhận và xử lý tờ khai, quản lý thu nợ là hai chức năng rất quan trọng trong quản lý thuế thì đã tổ chức bộ phận thực hiện nhưng chưa rõ trách nhiệm. Công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn chính sách thuế; hỗ trợ cho người nộp thuế chưa thật đáp ứng được yêu cầu nâng cao sự hiểu biết, tính tự giác trong việc chấp hành chính sách thuế của Nhà nước. Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về thuế chưa được đặt đúng tầm (chưa tập trung nguồn nhân lực làm công tác này); chưa phân biệt rõ ranh giới giữa công tác kiểm tra và công tác thanh tra. Theo kinh nghiêm của các nước: kiểm tra là công việc thường xuyên mang tính nghiệp vụ được thực hiện ngay tại trụ sở cơ quan thuế dựa trên hồ sơ khai thuế của tổ chức, cá nhân nộp thuế hoặc được thực hiện tại cơ sở kinh doanh khi mà cơ sở kinh doanh không giải thích được các số liệu trong hồ sơ khai thuế; còn thanh tra thuế được thực hiện theo định kỳ đối với cơ sở kinh doanh có quy mô lớn, ngành nghề kinh doanh đa dạng, nộp thuế nhiều; đối với cơ sở kinh doanh có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế hoặc thanh tra để giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế. Kỹ thuật quản lý và sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế còn quá thấp. Tin học chưa hỗ trợ mạnh mẽ, tích cực trong công tác quản lý thuế.
Về trình độ, năng lực, cán bộ thuế đã trưởng thành và có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế mới như: cơ chế quản lý cơ sở kinh doanh tự khai, tự nộp thuế; cơ quan thuế thực hiện quản lý thuế theo chức năng trong đó hai chức năng chính là tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế và thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về thuế; kỹ thuật quản lý: tổng hợp, phân tích, đánh giá, phân loại đối tượng nộp thuế theo mức độ rủi ro để tập trung quản lý. Với cơ chế quản lý thuế mới, đòi hỏi phải thường xuyên bồi dưỡng cán bộ thuế theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp, không những bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ còn phải bồi dưỡng về ngoại ngữ, sử dụng vi tính, phẩm chất đạo đức.
Về phẩm chất đạo đức, hầu hết cán bộ thuế và hải quan có phẩm chất đạo đức tốt nhưng cũng còn một bộ phận cán bộ do thiếu rèn luyện, tu dưỡng và quản lý của cơ quan chưa chặt chẽ nên chưa làm tròn trách nhiệm: thái độ và phong cách ứng xử chưa tận tụy, công tâm, khách quan giữa quyền lợi của Nhà nước và cá nhân; chưa trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy của đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện các luật thuế; thậm chí có trường hợp đã thoái hoá, biến chất, tiêu cực, tham nhũng.
2.5. Kết quả thực hiện các biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật về thuế, chống thất thu thuế còn hạn chế
Thực tế quản lý thuế cho thấy, bên cạnh phần đông người nộp thuế tự giác thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế của mình vẫn còn không ít trường hợp vi phạm pháp luật về thuế, chây ỳ nộp thuế, trốn thuế. Tính đến 30/9/2005, mặc dù cơ quan quản lý thuế đã hết sức cố gắng nhằm thu đúng, thu đủ thuế song số nợ thuế do người nộp thuế chây ỳ không chịu nộp thuế đã lên tới 4.200 tỷ đồng, trong đó: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 2.600 tỷ đồng; các loại thuế khác: 1.420 tỷ đồng. Từ năm 1999 đến năm 2006, tổng số các vụ có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng trong thực hiện các luật thuế vượt quá thẩm quyền xử lý của cơ quan thuế phải chuyển cho cơ quan có thẩm quyền để điều tra, khởi tố là 1.616 vụ song mới khởi tố được 553 vụ, đã xét xử được 67 vụ, thu hồi cho ngân sách nhà nước 274 tỷ đồng.
PHẦN THỨ HAI
LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
A. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
Trước yêu cầu hiện đại công tác quản lý thuế nhằm bảo đảm chính sách động viên của Đảng và Nhà nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần bình đẳng công bằng xã hội, phù hợp với nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập quốc tế, ngày 29 tháng 11 năm 2006, tại Kỳ họp thứ 10 (Khoá XI), Quốc hội đã thông qua Luật quản lý thuế. Đây là lần đầu tiên hoạt động quản lý thuế được quy định thống nhất trong một Luật, tạo tiền đề pháp lý cao trong việc thực hiện chiến lược cải cách và hiện đại hoá hệ thống thuế đã được Bộ Chính trị phê duyệt.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu đề cao vai trò của tổ chức, cá nhân trong công tác quản lý thuế và thống nhất các quy định về quản lý thuế.
Quản lý thuế là công việc liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân. Đặc biệt, từ năm 2005, khi thực hiện cơ chế thí điểm người nộp thuế tự tính, tự khai, tự nộp thuế thì vai trò của người nộp thuế khi thực hiện thí điểm cơ chế quản lý thuế mới đã được đề cao hơn. Theo đó, người nộp thuế tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, cơ quan quản lý thuế tập trung vào thực hiện các chức năng tuyên truyền, hỗ trợ kiểm tra, giám sát người nộp thuế. Trong khi đó, nội dung quản lý thuế lại được quy định rải rác ở nhiều luật thuế nên đã gây khó khăn cho cả người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế trong việc tuân thủ các quy định về quản lý thuế. Việc ban hành Luật quản lý thuế áp dụng chung cho các loại thuế sẽ khắc phục được tình trạng trên và không phải sửa đổi nhiều luật thuế. Từ đó sẽ tách bạch được nội dung quy định về quản lý thuế ra khỏi các luật thuế hiện hành. Các luật thuế sau này tập trung vào các nội dung quy định về chính sách thuế.
Thứ hai, nâng cao tính pháp lý của các quy định quản lý thuế bảo đảm thực thi hiệu quả các luật thuế, pháp lệnh thuế.
Qua tổng kết đánh giá công tác quản lý thuế trong 15 năm qua (1990 – 2005), hầu hết các quy định về quản lý thuế trong các luật thuế hiện hành chỉ quy định chung, mang tính nguyên tắc. Các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế; quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế; các thủ tục hành chính về thuế; thời gian giải quyết các công việc về thuế đều được quy định tại các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật, nên tính pháp lý không cao. Do đó, cần thiết phải luật hoá các quy định nêu trên nhằm nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế.
Thứ ba, khắc phục các hạn chế của công tác quản lý thuế và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, tình trạng thất thu thuế, nợ đọng thuế còn diễn ra ở nhiều sắc thuế, nhiều địa phương. Ngoài các nguyên nhân về nhận thức của người nộp thuế, còn có nguyên nhân là chưa có quy định cụ thể về các công cụ giám sát, các chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về thuế; phương pháp quản lý thuế còn lạc hậu so với các nước trong khu vực. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng Luật quản lý thuế phù hợp với thông lệ quốc tế. Đó là người nộp thuế tự tính, tự khai, tự nộp thuế; cơ quan thuế thực hiện các chức năng quản lý thuế mà trong đó chủ yếu là cung cấp các dịch vụ công (tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế), giám sát tuân thủ pháp luật thuế thông qua việc kiểm tra, thanh tra, điều tra thuế và cưỡng chế thi hành pháp luật thuế.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG LUẬT
Luật quản lý thuế được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế; tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế nộp đúng, đủ kịp thời tiền thuế vào ngân sách nhà nước và cơ quan quản lý thuế thu đúng, thu đủ tiền thuế; quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc quản lý thuế. Đồng thời Luật được ban hành nhằm đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch, dễ thực hiện, tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước, cộng đồng xã hội trong việc thực hiện quản lý thuế.
Luật được xây dựng dựa trên các quan điểm chỉ đạo như sau:
– Kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý thuế để quy định thống nhất trong luật quản lý thuế chung, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách quản lý thuế trong những năm tới.
– Tiếp cận với những kinh nghiệm quản lý thuế của các nước tiên tiến, áp dụng phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
– Tạo hành lang pháp lý cho đổi mới phương thức quản lý thuế từ cơ chế chuyên quản, chuyển từ cơ chế người nộp thuế thụ động trong thực hiện nghĩa vụ thuế sang cơ chế người nộp thuế chủ động trong việc xác định đúng số thuế phải nộp, thực hiện nộp thuế đúng thời hạn cũng như xác định các ưu đãi thuế, quyền lợi về thuế của mình. Cơ quan quản lý thuế tập trung vào thực hiện tuyền truyền, phổ biến hướng dẫn pháp luật thuế, kiểm tra, thanh tra bảo đảm tuân thủ pháp luật thuế.
– Ngoài ra, Luật quản lý thuế còn phải đảm bảo tính thống nhất với các Luật khác có liên quan như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật thanh tra, Luật khiếu nại, tố cáo, Luật hải quan, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính…
III. KẾT CẤU CỦA LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
1. Luật Quản lý thuế gồm 14 chương, 120 điều được bố cục như sau:
Chương I: Những quy định chung.
Chương này có 20 điều (từ Điều 1 đến Điều 20) quy định những vấn đề chung nhất mang tính nguyên tắc về quản lý thuế, bao gồm: phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; nội dung quản lý thuế; nguyên tắc quản lý thuế; quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế; trách nhiệm và quyền của cơ quan quản lý thuế; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan; hợp tác quốc tế về quản lý thuế; xây dựng lực lượng quản lý thuế; hiện đại hoá công tác quản lý thuế; tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục thuế.
Chương II: Đăng ký thuế
Chương này gồm 9 điều (từ Điều 21 đến Điều 29) quy định cụ thể về đối tượng phải đăng ký thuế; thời hạn đăng ký thuế; hồ sơ đăng ký thuế; địa điểm nộp hồ sơ đăng ký thuế; tiếp nhận hồ sơ đăng ký thuế; cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế; thay đổi thông tin đăng ký thuế; sử dụng mã số của người nộp thuế và chấm dứt hiệu lực mã số thuế.
Chương III: Khai thuế, tính thuế
Chương này gồm 6 điều (từ Điều 30 đến Điều 35) quy định nguyên tắc khai thuế và tính thuế; hồ sơ khai thuế; thời hạn nộp hồ sơ khai thuế; gia hạn nộp hồ sơ khai thuế; khai bổ sung hồ sơ khai thuế; tiếp nhận hồ sơ khai thuế.
Chương IV: Ấn định thuế
Chương này gồm 6 điều (từ Điều 36 đến Điều 41) quy định nguyên tắc ấn định thuế; các trường hợp phải ấn định thuế: Ấn định thuế đối với người nộp thuế nộp thuế theo phương pháp kê khai nhưng vi phạm về thuế; ấn định thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán thuế; ấn định thuế đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu; quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc ấn định thuế; trách nhiệm của người nộp thuế trong việc nộp số thuế ấn định.
Chương V: Nộp thuế
Chương này gồm 11 điều (từ Điều 42 đến Điều 52) quy định thời hạn nộp thuế; đồng tiền nộp thuế; địa điểm và hình thức nộp thuế; thứ tự thanh toán tiền thuế; xác định ngày nộp thuế; xử lý số tiền thuế nộp thừa; nộp thuế trong thời gian khiếu nại, khởi kiện; gia hạn nộp thuế; thẩm quyền gia hạn nộp thuế; hồ sơ gia hạn nộp thuế; tiếp nhận và xử lý hồ sơ gia hạn nộp thuế.
Chương VI: Trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế
Chương này gồm 4 điều (từ Điều 53 đến Điều 56) quy định về xác định hoàn thành nghĩa vụ thuế khi xuất cảnh; giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động; tổ chức lại doanh nghiệp; hoàn thành nghĩa vụ thuế của cá nhân là người đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc người được coi là mất tích theo quy định của pháp luật dân sự.
Chương VII: Thủ tục hoàn thuế
Chương này gồm 4 điều (từ Điều 57 đến Điều 60) quy định các trường hợp thuộc diện hoàn thuế; hồ sơ hoàn thuế; trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế; trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế.
Chương VIII: Thủ tục miễn thuế, giảm thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền phạt
Chương này gồm 8 điều (từ Điều 61 đến Điều 68) chia làm 2 Mục: Mục I – Thủ tục miễn, giảm thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền phạt với 4 điều, quy định các trường hợp được miễn thuế, giảm thuế; hồ sơ miễn thuế, giảm thuế; nộp và tiếp nhận hồ sơ miễn, giảm thuế; thời hạn cơ quan thuế giải quyết miễn, giảm thuế; Mục II – Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt với 4 điều quy định các trường hợp được xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; thẩm quyền xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; trách nhiệm trong tiếp nhận và giải quyết hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt.
Chương IX: Thông tin về người nộp thuế
Chương này gồm 6 điều (từ Điều 69 đến Điều 74) quy định hệ thống thông tin về người nộp thuế; xây dựng, thu thập, xử lý và quản lý hệ thống thông tin về người nộp thuế; trách nhiệm của người nộp thuế, của tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin; bảo mật thông tin của người nộp thuế; công khai thông tin vi phạm pháp luật về thuế.
Chương X: Kiểm tra thuế, thanh tra thuế
Chương này gồm 17 điều (từ Điều 75 đến Điều 91), được chia thành 4 mục. Mục I gồm 2 điều quy định chung về kiểm tra, thanh tra thuế; Mục II gồm 4 điều, quy định cụ thể về kiểm tra thuế; Mục III gồm 7 điều quy định cụ thể về thanh tra thuế; Mục IV gồm 4 điều quy định về biện pháp áp dụng trong thanh tra thuế đối với trường hợp có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế.
Chương XI: Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
Chương này gồm 11 điều (từ Điều 92 đến Điều 102) quy định các trường hợp bị cưỡng chế thuế, thi hành quyết định hành chính thuế; biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; thẩm quyền quyết định, nội dung quyết định và nơi gửi, thời hạn gửi quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; các biện pháp cưỡng chế thuế cụ thể.
Chương XII: Xử lý vi phạm pháp luật về thuế
Chương này gồm 13 điều (từ Điều 103 đến Điều 115) quy định các hành vi vi phạm pháp luật về thuế và việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm đó; nguyên tắc, thủ tục xử phạt vi phạm pháp luật về thuế; thẩm quyền xử phạt; thời hiệu xử phạt; các trường hợp miễn xử phạt; xử lý vi phạm đối với cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế, đối với ngân hàng, tổ chức tín dụng người bảo lãnh nộp tiền thuế và tổ chức cá nhân có liên quan.
Chương XIII: Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện
Chương này có 3 điều (từ Điều 116 đến Điều 118) quy định người nộp thuế, tổ chức, cá nhân có liên quan có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện quyết định của cơ quan quản lý thuế, hành vi của công chức thuế, công chức hải quan trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình và quy định trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý thuế trong việc giải quyết khiếu nại về thuế. Trong đó thẩm quyền, thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo đã bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về giải quyết các vụ án hành chính.
Chương XIV: Điều khoản thi hành
Chương này có 2 điều (Điều 119 và Điều 120) quy định hiệu lực thi hành Luật là từ ngày 01 tháng 07 năm 2007 và trách nhiệm quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành của Chính phủ.
B. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
1. Phạm vi điều chỉnh
Điều 1 Luật quản lý thuế quy định phạm vi điều chỉnh “quy định việc quản lý các loại thuế, các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật”. Như vậy, Luật quản lý thuế có phạm vi điều chỉnh rất toàn diện, áp dụng đối với tất cả các khâu trong quá trình thực hiện các nghĩa vụ quy định đối với các sắc thuế và các khoản thu ngân sách nhà nước do cơ quan thuế, cơ quan hải quan quản lý.
2. Đối tượng điều chỉnh
Luật quản lý thuế điều chỉnh tất cả các chủ thể có nghĩa vụ, trách nhiệm trong công tác quản lý thuế: bao gồm (i) Người nộp thuế là: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế; Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước (gọi chung là thuế) do cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật; Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế và làm các thủ tục về thuế thay người nộp thuế; (ii) Cơ quan quản lý thuế gồm cơ quan thuế, cơ quan hải quan; (iii) Công chức quản lý thuế gồm công chức thuế, công chức hải quan; (iv) Cơ quan nhà nước; tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện pháp luật thuế.
3. Quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế
Luật quản lý thuế quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế để giúp người nộp thuế hoàn thành tốt nghĩa vụ thuế của mình. Điều 6 của Luật quản lý thuế quy định về quyền của người nộp thuế. Các quyền này bảo đảm môi trường thuận lợi và tin cậy cho người nộp thuế trong khi làm nghĩa vụ của mình. Theo đó, người nộp thuế có quyền được yêu cầu cơ quan quản lý thuế (bao gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan) hướng dẫn thực hiện pháp luật thuế, cung cấp thông tin tài liệu về thuế, giải thích việc tính thuế, ấn định thuế; quyền được hưởng các ưu đãi về thuế; được hoàn thuế; được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật; quyền khiếu nại, khởi kiện, tố cáo các hành vi làm trái pháp luật của công chức thuế, công chức hải quan và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Trong đó, có một số quyền được quy định nhằm thực hiện tốt cơ chế tự khai, tự nộp thuế như:
(i) Được cơ quan thuế hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; được cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế;
(ii) Yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích việc tính thuế, ấn định thuế; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giám định chất lượng, số lượng, chủng loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu;
(iii) Được giữ bí mật thông tin theo quy định của pháp luật;
(iv) Ký hợp đồng với tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế để thay mặt mình làm các thủ tục về thuế.
Song song với quyền, các nghĩa vụ của người nộp thuế cũng được quy định đầy đủ trong Luật quản lý thuế (Điều 7). Trong đó, nghĩa vụ cơ bản và trước nhất của người nộp thuế là phải đăng ký thuế, khai thuế trung thực, chính xác và nộp thuế đầy đủ, đúng hạn. Các nghĩa vụ khác liên quan đến việc chấp hành các quy định, chế độ để bảo đảm cho việc khai thuế theo quy định như: chấp hành chế độ kế toán, sử dụng hoá đơn theo quy định, ghi chép chính xác, đầy đủ trung thực những hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế, chấp hành quyết định, thông báo, yêu cầu của cơ quan thuế theo quy định của pháp luật. Đồng thời, Luật cũng có các quy định chế tài cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, chế tài xử phạt nhằm ngăn chặn, xử lý nghiêm minh những người có hành vi vi phạm pháp luật thuế, bảo đảm môi trường bình đẳng cho người chấp hành tốt nghĩa vụ thuế.
4. Quyền và nghĩa vụ của cơ quan, công chức quản lý thuế
Luật quản lý thuế quy định cơ quan thuế có các quyền hạn để thực thi nhiệm vụ quản lý thuế có hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, cơ quan quản lý thuế có các quyền: (i) Yêu cầu người nộp thuế cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế, số hiệu và nội dung giao dịch của các tài khoản mở tại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; giải thích việc tính thuế, khai thuế, nộp thuế; (ii) Yêu cầu tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế và phối hợp với cơ quan quản lý thuế để thực hiện pháp luật thuế; (iii) Kiểm tra thuế, thanh tra thuế; (iv) Ấn định thuế; (v) Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; (vi) Xử lý vi phạm pháp luật thuế theo thẩm quyền; công khai trên phương tiện thông tin đại chúng các trường hợp vi phạm pháp luật thuế; (vii) Áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế theo quy định của pháp luật; (viii) Ủy nhiệm cho cơ quan, tổ chức, cá nhân thu một số khoản thuế vào ngân sách nhà nước theo quy định của Chính phủ.
Bên cạnh việc trao cho cơ quan thuế một số quyền hạn để thực thi nhiệm vụ quản lý thuế, Luật quản lý thuế còn quy định các trách nhiệm ràng buộc để cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế làm tốt nhiệm vụ của mình. Đó là: (i) Tổ chức thực hiện thu thuế theo quy định của pháp luật; (ii) Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật thuế; công khai các thủ tục về thuế; (iii) Giải thích và cung cấp các thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế; công khai mức thuế phải nộp của hộ gia đình, cá nhân kinhdoanh trên địa bàn xã, phường, thị trấn; (iv) Giữ bí mật thông tin của người nộp thuế theo quy định của Luật quản lý thuế; (v) Thực hiện miễn thuế, giảm thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền phạt, hoàn thuế cho người nộp thuế theo quy định của pháp luật; (vi) Xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế khi có đề nghị theo quy định của pháp luật; (vii) Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến thực hiện pháp luật thuế theo thẩm quyền; (viii) Giao kết luận, biên bản kiểm tra thuế, thanh tra thuế cho đối tượng kiểm tra thuế, thanh tra thuế và giải thích khi có yêu cầu; (ix) Bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế theo quy định của Luật này; (x) Giám định để xác định số thuế phải nộp của người nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Với định hướng để thực hiện tốt cơ chế tự khai, tự nộp của người nộp thuế, thì trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật phải được nâng cao và đặt trong bối cảnh mới nhằm tạo điều kiện cho người nộp thuế hiểu và thực hiện đúng các quy định nghĩa vụ thuế cũng như các quyền lợi về thuế.
Song song với việc quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, Luật quy định rõ việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về thuế đối với cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế để ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm:
(i) Cơ quan thuế thực hiện không đúng quy định của Luật quản lý thuế gây thiệt hại cho người nộp thuế thì phải bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế theo quy định của pháp luật; trường hợp ấn định thuế, hoàn thuế sai do lỗi của cơ quan quản lý thuế thì cơ quan quản lý thuế phải bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế theo quy định của pháp luật (Điều 112).
(ii) Công chức quản lý thuế gây phiền hà, khó khăn cho người nộp thuế làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người nộp thuế, thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc xử lý sai quy định của pháp luật về thuế thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại cho người nộp thuế thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Công chức quản lý thuế lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thông đồng, bao che cho người nộp thuế, tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng trái phép, chiếm dụng, chiếm đoạt tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự và phải bồi thường cho Nhà nước toàn bộ số tiền thuế, tiền phạt đã sử dụng trái phép, chiếm dụng, chiếm đoạt theo quy định của pháp luật (Điều 113).
2.5. Tổ chức kinh doanh làm thủ tục về thuế
Thực hiện cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế đòi hỏi người nộp thuế phải nắm vững các quy định pháp luật về quản lý thuế. Bên cạnh việc cơ quan quản lý thuế phải tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế, cần phải đẩy mạnh xã hội hoá trong việc trợ giúp người nộp thuế, nhất là đối với người nộp thuế là cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để có cơ sở pháp lý cho hoạt động này, Điều 20 Luật quản lý thuế quy định về tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế. Theo đó, tổ chức kinh doanh làm thủ tục về thuế là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ có điều kiện được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp, thực hiện các thủ tục về thuế theo thoả thuận với người nộp thuế.
Luật quản lý thuế quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế. Trong đó, tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế có các quyền như được thực hiện các thủ tục về thuế theo hợp đồng với người nộp thuế; được thực hiện các quyền của người nộp thuế theo quy định của Luật quản lý thuế và theo hợp đồng với người nộp thuế. Bên cạnh đó, Luật quy định cụ thể các nghĩa vụ của tổ chức này như: Thông báo với cơ quan quản lý thuế quản lý trực tiếp người nộp thuế về hợp đồng dịch vụ làm thủ tục thuế; khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế lập hồ sơ đề nghị số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn theo quy định của pháp luật; cung cấp cho cơ quan quản lý thuế các tài liệu, chứng từ để chứng minh tính chính xác của việc khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, đề nghị số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm, số tiền thuế được hoàn của người nộp thuế; chịu trách nhiệm trước pháp luật và chịu trách nhiệm với người nộp thuế theo nội dung thoả thuận trong hợp đồng dịch vụ làm thủ tục về thuế. Luật cũng quy định rõ việc tổ chức này không được thông đồng, móc nối với công chức quản lý thuế, người nộp thuế để tránh việc trốn thuế, gian lận thuế.
Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu thì đại lý hải quan thực hiện quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế khi làm thủ tục về thuế.
Về điều kiện hành nghề của tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế, Luật quy định phải bảo đảm các điều kiện: có ngành, nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; có ít nhất hai nhân viên được cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế. Người được cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế phải có bằng cao đẳng trở lên thuộc một trong các chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán, kiểm toán, luật và đã có kinh nghiệm làm việc 2 năm trở lên trong các lĩnh vực này, đồng thời phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
6. Trách nhiệm pháp lý của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong công tác quản lý thuế
Luật quản lý thuế đề cao trách nhiệm pháp lý của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong công tác quản lý thuế. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước để phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Vì vậy, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan đều có trách nhiệm tham gia vào công tác quản lý thuế, cụ thể là:
– Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quyết định nhiệm vụ thu ngân sách hằng năm và giám sát việc thực hiện pháp luật về thuế; Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan có liên quan tại địa phương phối hợp với cơ quan quản lý thuế lập dự toán thu ngân sách nhà nước và tổ chức thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước trên địa bàn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về thuế, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc thực hiện pháp luật về thuế theo thẩm quyền (Điều 11).
– Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ tư vấn cho cơ quan thuế về mức thuế của các hộ, gia đình, cá nhân kinh doanh trên địa bàn, bảo đảm đúng pháp luật, dân chủ, công khai, công bằng, hợp lý (Điều 12).
– Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm động viên nhân dân, giáo dục hội viên nghiêm chỉnh thi hành pháp luật về thuế; phê phán các hành vi vi phạm pháp luật về thuế; phối hợp với cơ quan thuế trong việc cung cấp thông tin liên quan đến việc quản lý thuế (Điều 14).
– Cơ quan thông tin, báo chí có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về thuế; nêu gương tổ chức, cá nhân thực hiện tốt pháp luật về thuế; phản ánh và phê phán các hành vi vi phạm pháp luật về thuế (Điều 15).
– Các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thuế; phối hợp với cơ quan quản lý thuế trong việc quản lý thuế; tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế. Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh tội phạm vi phạm pháp luật về thuế theo quy định của pháp luật và thông báo tiến độ, kết quả xử lý vụ việc cho cơ quan quản lý thuế (Điều 13).
– Các tổ chức, cá nhân khác trong việc tham gia quản lý thuế có trách nhiệm cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế; phối hợp thực hiện các quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế; tố giác các hành vi vi phạm pháp luật về thuế; yêu cầu người bán hàng, người cung cấp dịch vụ phải giao hóa đơn, chứng từ bán hàng hóa, dịch vụ đúng số lượng, chủng loại, giá trị thực thanh toán khi mua hàng hóa, dịch vụ (Điều 16).
Như vậy, việc tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào công tác quản lý thuế vừa mang tính giám sát người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế trong quá trình thực thi nghĩa vụ, quyền hạn của mình; đồng thời có tác dụng hỗ trợ cho hai nhóm chủ thể này hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm của mình với Nhà nước.
7. Đăng ký thuế
Về nội dung này, Luật quản lý thuế có 9 điều (từ Điều 21 đến Điều 29) quy định cụ thể về đối tượng phải đăng ký thuế, thời hạn đăng ký thuế, hồ sơ đăng ký thuế, địa điểm nộp hồ sơ đăng ký thuế, trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, công chức thuế trong việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký thuế, cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế, thay đổi thông tin đăng ký thuế, sử dụng mã số thuế của người nộp thuế và chấm dứt hiệu lực mã số thuế của người nộp thuế.
– Người nộp thuế kinh doanh thường xuyên thì phải đăng ký thuế. Những người chỉ nộp thuế theo từng lần phát sinh (lệ phí trước bạ, thuế chuyển quyền sử dụng đất..) và hộ gia đình, cá nhân chỉ nộp thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp không phải đăng ký thuế.
– Hồ sơ đăng ký thuế:
+ Hồ sơ đăng ký thuế đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh bao gồm:
·Tờ khai đăng ký thuế;
·Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép thành lập và hoạt động hoặc Giấy chứng nhận đầu tư.
+ Hồ sơ đăng ký thuế đối với tổ chức, cá nhân không thuộc diện đăng ký kinh doanh bao gồm:
·Tờ khai đăng ký thuế;
·Bản sao quyết định thành lập hoặc quyết định đầu tư đối với tổ chức; bản sao Giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu đối với cá nhân.
– Khi nhận hồ sơ đăng ký thuế của người nộp thuế, công chức thuế tiếp nhận và đóng dấu tiếp nhận hồ sơ, ghi thời gian nhận hồ sơ, số lượng tài liệu trong hồ sơ. Trường hợp nhận qua đường bưu chính, công chức thuế phải đóng dấu ghi nhận hồ sơ và ghi vào sổ văn thư của cơ quan thuế. Trường hợp nộp hồ sơ đăng ký thông qua giao dịch điện tử, việc tiếp nhận kiểm tra chấp nhận hồ sơ đăng ký thuế được thực hiện thông qua hệ thống dữ liệu điện tử. Trường hợp cần bổ sung hồ sơ, cơ quan thuế phải thông báo cho người nộp thuế trong ngày nhận hồ sơ đối với trường hợp trực tiếp nhận hồ sơ, trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ qua đường bưu chính hoặc thông qua giao dịch điện tử.
– Người nộp thuế đã đăng ký thuế thì được cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế, trong đó có thông tin về mã số thuế và cơ quan quản lý thuế trực tiếp.
– Người nộp thuế phải ghi mã số thuế được cấp vào hóa đơn, chứng từ, tài liệu khi thực hiện các giao dịch kinh doanh; kê khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế và các giao dịch về thuế; mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác.
– Cơ quan quản lý thuế, Kho bạc Nhà nước sử dụng mã số thuế trong quản lý thuế và thu thuế vào ngân sách nhà nước. Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác phải ghi mã số thuế trong hồ sơ mở tài khoản của người nộp thuế và các chứng từ giao dịch qua tài khoản.
– Người nộp thuế thay đổi thông tin đăng ký thuế thì phải thông báo cho cơ quan quản lý thuế biết. Trường hợp có sự thay đổi trụ sở dẫn đến thay đổi cơ quan quản lý thuế trực tiếp, người nộp thuế có trách nhiệm nộp đủ số tiền thuế đã khai trước khi thay đổi trụ sở và không phải quyết toán thuế (hiện nay có sự thay đổi trụ sở dẫn đến thay đổi cơ quan quản lý trực tiếp, người nộp thuế phải quyết toán thuế).
8. Khai thuế, tính thuế
Nội dung này được quy định từ Điều 30 đến Điều 35 của Luật quản lý thuế, trong đó quy định cụ thể về nguyên tắc khai thuế và tính thuế; hồ sơ khai thuế; thời hạn, địa điểm nộp hồ sơ khai thuế; gia hạn nộp hồ sơ khai thuế; khai bổ sung hồ sơ khai thuế; trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế và công chức thuế trong việc tiếp nhận hồ sơ khai thuế.
8.1. Nguyên tắc khai thuế
Áp dụng nguyên tắc người nộp thuế tự tính, tự khai với tất cả các loại thuế, khoản thu ngân sách nhà nước, trừ trường hợp:
– Người nộp thuế vi phạm pháp luật về thuế (không kê khai và nộp hồ sơ khai cho cơ quan quản lý thuế, số liệu kê khai không phản ánh đầy đủ trung thực trên sổ sách kế toán…);
– Cá nhân, hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán thuế;
– Hộ gia đình, cá nhân nộp thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Đối với loại thuế khai theo tháng, quý hoặc năm nếu trong kỳ tính thuế không phát sinh nghĩa vụ thuế hoặc đang thuộc diện ưu đãi miễn, giảm thuế thì người nộp thuế vẫn phải nộp hồ sơ khai thuế cho cơ quan quản lý thuế theo đúng thời hạn quy định.
8.2. Hồ sơ khai thuế
Luật quản lý thuế đã quy định cụ thể hồ sơ khai thuế đối với loại thuế khai và nộp theo tháng, theo quý, theo năm và theo từng lần phát sinh; đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; đối với trường hợp chấm dứt hoạt động, chấm dứt hợp đồng, chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp, tổ chức lại doanh nghiệp.
Tại Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật quản lý thuế đã định cụ thể hồ sơ khai thuế đối với từng loại thuế (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên…).
8.3. Về thời hạn nộp hồ sơ khai thuế
Luật quy định thống nhất thời hạn nộp hồ sơ khai thuế theo tháng, quý, năm và từng lần phát sinh:
– Chậm nhất là ngày thứ mười, kể từ ngày phát sinh nghĩa vụ thuế đối với loại thuế khai và nộp theo từng lần phát sinh nghĩa vụ thuế.
– Chậm nhất là ngày thứ hai mươi của tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế đối với loại thuế khai và nộp theo tháng.
– Chậm nhất là ngày thứ ba mươi của quý tiếp theo quý phát sinh nghĩa vụ thuế đối với hồ sơ khai thuế tạm tính theo quý.
– Chậm nhất là ngày thứ ba mươi của tháng đầu tiên của năm dương lịch hoặc năm tài chính đối với hồ sơ khai thuế năm.
– Chậm nhất là ngày thứ chín mươi, kể từ ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính đối với hồ sơ quyết toán thuế năm.
– Chậm nhất là ngày thứ bốn mươi lăm, kể từ ngày chấm dứt hoạt động, chấm dứt hợp đồng, chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp hoặc tổ chức lại doanh nghiệp.
8.4. Gia hạn nộp hồ sơ khai thuế
Đây là nội dung mới trong quản lý thuế nhằm phù hợp với thực tiễn. Trong một số trường hợp do nguyên nhân bất khả kháng, Luật đã quy định người nộp thuế được gia hạn nộp hồ sơ khai thuế mà không bị xử lý vi phạm hành chính:
– Người nộp thuế không có khả năng nộp hồ sơ khai thuế đúng hạn do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ thì được thủ trưởng cơ quan thuế quản lý trực tiếp gia hạn nộp hồ sơ khai thuế.
– Thời gian gia hạn không quá ba mươi ngày đối với việc nộp hồ sơ khai thuế tháng, khai thuế năm, khai thuế tạm tính, khai thuế theo từng lần phát sinh nghĩa vụ thuế; sáu mươi ngày đối với việc nộp hồ sơ khai quyết toán thuế, kể từ ngày hết thời hạn phải nộp hồ sơ khai thuế.
– Người nộp thuế phải gửi đến cơ quan thuế văn bản đề nghị gia hạn nộp hồ sơ khai thuế trước khi hết hạn nộp hồ sơ khai thuế, trong đó nêu rõ lý do đề nghị gia hạn.
– Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị gia hạn nộp hồ sơ khai thuế, cơ quan thuế phải trả lời bằng văn bản cho người nộp thuế về việc chấp nhận hay không chấp nhận việc gia hạn nộp hồ sơ khai thuế.
8.5. Khai bổ sung hồ sơ khai thuế
Đây cũng là nội dung mới trong quản lý thuế được quy định tại Điều 34 Luật quản lý thuế.
Trước khi cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế, người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp có sai sót gây ảnh hưởng đến số thuế phải nộp thì được khai bổ sung hồ sơ khai thuế. Quy định này khuyến khích người nộp thuế tự kiểm tra phát hiện những lỗi sai sót của mình trong quá trình kê khai nộp thuế và trường hợp này người nộp thuế không bị xử phạt hành chính về hành vi khai thiếu cũng như xử phạt về hành vi trốn thuế (nếu thuộc hành vi trốn thuế) từ đó tăng tính tự giác tuân thủ của người nộp thuế.
– Trường hợp khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm tăng số tiền thuế phải nộp, người nộp thuế tự xác định số tiền phạt chậm nộp căn cứ vào số tiền thuế khai thiếu và số ngày chậm nộp nộp vào ngân sách nhà nước (trường hợp người nộp thuế không tự xác định thì cơ quan thuế xác định và thông báo cho người nộp thuế biết để thực hiện).
– Trường hợp khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm giảm số thuế phải nộp, thì được bù trừ số thuế giảm vào số thuế phát sinh của kỳ tiếp theo kỳ cơ quan thuế nhận được hồ sơ khai bổ sung. Số tiền phạt chậm nộp (nếu có) của số thuế điều chỉnh giảm không được điều chỉnh cho tháng phát sinh nghĩa vụ thuế mà được điều chỉnh bắt đầu từ kỳ tính thuế tiếp theo kỳ nhận được hồ sơ khai bổ sung.
Ví dụ: Đơn vị A kê khai thuế giá trị gia tăng (GTGT) tháng 3 năm 2007 số tiền thuế GTGT phải nộp là 1 tỷ đồng. Đến tháng 7 năm 2007 đơn vị A phát hiện số thuế GTGT phải nộp chỉ là 600 triệu đồng và làm hồ sơ khai bổ sung với cơ quan thuế.
a) Trường hợp đơn vị A kê khai và đã nộp số tiền thuế GTGT 1 tỷ đồng trước ngày 25/4 thì số tiền thuế được điều chỉnh giảm vào hồ sơ khai thuế của tháng 8 (giảm số tiền thuế GTGT tháng 8 phải nộp tương ứng với số tiền thuế GTGT kê khai thừa).
b) Trường hợp đơn vị A kê khai nhưng chưa nộp tiền thuế GTGT trước ngày 25/4 và phát sinh số tiền phạt nộp chậm thì số tiền thuế và số tiền phạt nộp chậm của số thuế kê khai thừa sẽ được điều chỉnh giảm vào số thuế phải nộp vào hồ sơ khai thuế của tháng 8 (giảm số tiền thuế GTGT tháng phải nộp tương ứng với số tiền thuế GTGT khai thừa và số tiền phạt chậm nộp của số tiền thuế GTGT khai thừa chỉ được điều chỉnh từ kỳ kê khai tiếp theo kỳ khai bổ sung).
8.6. Trách nhiệm của cơ quan thuế, công chức thuế trong việc tiếp nhận hồ sơ khai thuế
– Trường hợp hồ sơ khai thuế được nộp trực tiếp tại cơ quan thuế, công chức thuế tiếp nhận và đóng dấu tiếp nhận hồ sơ, ghi thời gian nhận hồ sơ, ghi nhận số lượng tài liệu trong hồ sơ.
– Trường hợp hồ sơ khai thuế được gửi qua đường bưu chính, công chức thuế đóng dấu ghi ngày nhận hồ sơ và ghi vào sổ văn thư của cơ quan thuế.
– Trường hợp hồ sơ khai thuế được nộp thông qua giao dịch điện tử, việc tiếp nhận, kiểm tra, chấp nhận hồ sơ khai thuế do cơ quan quản lý thuế thực hiện thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử.
– Trường hợp hồ sơ khai thuế chưa đầy đủ theo quy định, trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, cơ quan thuế phải thông báo bằng văn bản cho người nộp thuế để hoàn chỉnh hồ sơ.
9. Ấn định thuế
Chương IV Luật quản lý thuế đã quy định cụ thể việc ấn định thuế của cơ quan quản lý thuế. Quy định nguyên tắc ấn định thuế; ấn định thuế đối với người nộp thuế theo phương pháp kê khai trong trường hợp vi phạm pháp luật về thuế; ấn định thuế đối với hộ kinh doanh theo phương pháp khoán thuế; ấn định thuế đối với trường hợp xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá; trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế và của người nộp thuế trong việc ấn định thuế.
9.1.Nguyên tắc ấn định thuế
Cơ quan quản lý thuế ấn định số thuế phải nộp hoặc ấn định từng yếu tố liên quan đến việc xác định số thuế phải nộp.
Ấn định từng yếu tố có thể là yếu tố doanh thu, chi phí, giá tính thuế hoặc có thể là một phần trong chi phí để xác định chi phí hợp lý khi xác định thu nhập chịu thuế.
9.2. Trường hợp ấn định thuế
a) Ấn định thuế đối với người nộp thuế nộp thuế theo phương pháp kê khai vi phạm pháp luật thuế bao gồm:
– Không đăng ký thuế;
– Không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau mười ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế;
– Không khai thuế, không nộp bổ sung hồ sơ thuế theo yêu cầu của cơ quan thuế hoặc khai thuế không chính xác, trung thực, đầy đủ về căn cứ tính thuế;
– Không phản ánh hoặc phản ánh không đầy đủ, trung thực, chính xác số liệu trên sổ kế toán để xác định nghĩa vụ thuế;
– Không xuất trình sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ và các tài liệu cần thiết liên quan đến việc xác định số thuế phải nộp trong thời hạn quy định;
– Mua, bán, trao đổi và hạch toán giá trị hàng hoá, dịch vụ không theo giá trị giao dịch thông thường trên thị trường;
– Có dấu hiệu bỏ trốn hoặc phát tán tài sản để không thực hiện nghĩa vụ thuế.
b) Xác định mức thuế phải nộp theo phương pháp khoán thuế đối với các trường hợp sau đây:
– Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ;
– Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh không có đăng ký kinh doanh, không đăng ký thuế.
Cơ quan thuế căn cứ vào tài liệu kê khai của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế, ý kiến của hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn để xác định mức thuế khoán.
Mức thuế khoán được tính theo năm dương lịch và phải được công khai trong địa bàn xã, phường, thị trấn. Trường hợp có thay đổi ngành, nghề, quy mô kinh doanh, người nộp thuế phải khai báo với cơ quan thuế để điều chỉnh mức thuế khoán.
9.3. Các căn cứ ấn định thuế bao gồm
Việc ấn định thuế dựa vào các căn cứ sau:
– Cơ sở dữ liệu của cơ quan thuế;
– Căn cứ tài liệu của cơ sở kinh doanh cùng mặt hàng, ngành nghề, quy mô để so sánh;
– Tài liệu và kết quả kiểm tra, thanh tra còn hiệu lực.
Trên cơ sở các căn cứ đã nêu tuỳ theo mức độ vi phạm, cơ quan quản lý thuế ấn định số thuế phải nộp (ấn định toàn bộ) hoặc ấn định từng yếu tố liên quan đến việc xác định số thuế phải nộp.
9.4. Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế và người nộp thuế trong việc ấn định thuế
– Thông báo bằng văn bản cho người nộp thuế về lý do ấn định thuế, căn cứ ấn định thuế, số thuế ấn định, thời hạn nộp tiền thuế.
– Trường hợp số thuế ấn định của cơ quan quản lý thuế lớn hơn số thuế phải nộp thì cơ quan quản lý thuế phải hoàn trả số tiền thuế nộp thừa và bồi thường thiệt hại theo quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bản án quyết định của Toà án.
9.5. Trách nhiệm của người nộp thuế trong việc nộp số thuế ấn định
Người nộp thuế phải nộp số thuế ấn định theo thông báo của cơ quan quản lý thuế. Trường hợp không đồng ý với số thuế do cơ quan quản lý thuế ấn định thì người nộp thuế vẫn phải nộp số thuế đó, đồng thời có quyền yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích hoặc khiếu nại, khởi kiện về việc ấn định thuế.
9.6. Thời hạn nộp thuế: là mười ngày kể từ ngày cơ quan thuế ra quyết định ấn định thuế. Trường hợp cơ quan thuế ấn định thuế trên cơ sở kiểm tra thuế, thanh tra thuế, có số tiền thuế ấn định từ năm trăm triệu đồng trở lên, thời hạn nộp thuế là ba mươi ngày, kể từ ngày cơ quan thuế ra quyết định ấn định thuế.
10. Nộp thuế
Luật quản lý thuế quy định thời hạn nộp thuế; đồng tiền nộp thuế; địa điểm và hình thức nộp thuế; thứ tự thanh toán tiền thuế; xác định ngày nộp thuế; xử lý số tiền thuế nộp thừa; nộp thuế trong thời gian khiếu nại, khởi kiện; gia hạn nộp thuế.
10.1. Thời hạn nộp thuế
– Trường hợp người nộp thuế tự tính thuế, thời hạn nộp thuế chậm nhất là ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế. Trường hợp cơ quan quản lý thuế tính thuế hoặc ấn định thuế, thời hạn nộp thuế là thời hạn ghi trên thông báo của cơ quan quản lý thuế.
Ví dụ: Khai thuế tháng, thời hạn là ngày 20 của tháng tiếp theo tháng phát sinh nghĩa vụ thuế thì thời hạn nộp thuế cũng là ngày 20. Khai thuế quý, thời hạn là ngày 30 của tháng đầu tiên của quý tiếp theo, quyết toán thuế là chín mươi ngày…
10.2. Về thứ tự thanh toán tiền thuế, tiền phạt
Trường hợp người nộp thuế vừa có số tiền thuế nợ, tiền thuế truy thu, tiền thuế phát sinh, tiền phạt thì việc thanh toánđược thực hiện theo trình tự sau đây: (1) Tiền thuế nợ; (2) Tiền thuế truy thu; (3) Tiền thuế phát sinh; (4) Tiền phạt.
Thực hiện đúng thứ tự thanh toán trên, khoản 2 Điều 21 Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật quản lý thuế quy định: “các khoản tiền thuế, tiền phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế được nộp vào tài khoản thu ngân sách nhà nước mở tại Kho bạc Nhà nước. Bộ Tài chính hướng dẫn việc mở tài khoản thu ngân sách nhà nước tại Kho bạc Nhà nước, việc kế toán tiền thuế của người nộp thuế và việc chuyển tiền thuế đã nộp vào ngân sách nhà nước”.
Thực hiện nội dung này cần phải có điều kiện thực hiện tin học hoá ở mức cao, do đó phải thực hiện từng bước.
Để thực hiện được yêu cầu của Luật, cơ quan thuế hướng dẫn và yêu cầu người nộp thuế nộp tiền theo đúng trình tự trên. Trường hợp người nộp thuế nộp không đúng trình tự trên thì cơ quan thuế lập lệnh điều chỉnh khoản thuế đã thu gửi Kho bạc Nhà nước để điều chỉnh, đồng thời thông báo cho người nộp thuế biết về số tiền thuế, tiền phạt được điều chỉnh.
Các khoản tiền truy thu xử lý phạt chậm nộp và các khoản tiền phạt được nộp vào tài khoản tạm giữ của cơ quan thuế mở tại Kho bạc Nhà nước. Cơ quan thuế nộp vào ngân sách nhà nước các khoản tiền truy thu, xử lý phạt nộp chậm và các khoản tiền phạt theo các quyết định đã hết thời hiệu khiếu nại (quy định này giải quyết được những vướng mắc hiện nay: khoản tiền phạt được nộp vào tài khoản tạm giữ của cơ quan tài chính).
10.3. Về xử lý số tiền thuế nộp thừa
– Người nộp thuế có số tiền thuế đã nộp lớn hơn số tiền thuế phải nộp đối với từng loại thuế thì được trừ vào tiền thuế phải nộp của lần nộp thuế tiếp theo hoặc được trả lại số tiền thuế nộp thừa.
– Trường hợp người nộp thuế có yêu cầu trả lại số tiền thuế nộp thừa thì cơ quan quản lý thuế phải ra quyết định trả lại số tiền thuế nộp thừa trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu.
10.4. Thực hiện việc hoàn thuế, bù trừ thuế giữa các loại thuế với nhau được tiến hành như sau:
a) Trường hợp người nộp thuế được hoàn thuế mà không phải nộp bù trừ với các loại thuế khác:
Đối với thuế giá giá trị gia tăng: Cơ quan thuế gửi quyết định hoàn thuế cho Kho bạc Nhà nước đồng cấp. Kho bạc Nhà nước thực hiện hoàn trả cho người nộp thuế và báo nợ về kho bạc nhà nước cấp trên để trích từ quỹ hoàn thuế giá trị gia tăng của ngân sách Trung ương để chi trả.
Đối với hoàn trả các khoản thuế khác: Cơ quan thuế gửi quyết định hoàn thuế cho Kho bạc Nhà nước nơi người được hoàn trả đã nộp thuế trước đó. Kho bạc Nhà nước thực hiện hoàn trả tiền cho người được hoàn trả.
b) Trường hợp người nộp thuế được hoàn thuế và phải nộp bù trừ cho các khoản thuế khác:
Trường hợp hoàn trả thuế giá trị gia tăng: Cơ quan thuế gửi quyết định hoàn thuế và lệnh thu thuế cho Kho bạc Nhà nước cùng cấp; trường hợp hoàn trả các khoản thu khác, cơ quan thuế gửi quyết định hoàn thuế và lệnh thu thuế cho Kho bạc Nhà nước nơi người được hoàn trả đã nộp thuế.
Việc xử lý hạch toán hoàn thuế và thu ngân sách nhà nước của Kho bạc Nhà nước được thực hiện:
– Trường hợp Kho bạc Nhà nước nơi hoàn thuế đồng thời là Kho bạc Nhà nước thực hiện thu khoản thuế còn phải nộp: Kho bạc Nhà nước hạch toán hoàn trả thuế theo quy định; hạch toán thu ngân sách nhà nước theo lệnh thu của cơ quan thuế và phân chia cho các cấp ngân sách; thanh toán tiền hoàn thuế còn thừa (nếu có) cho người nộp thuế.
– Trường hợp Kho bạc nhà nước nơi hoàn thuế khác với Kho bạc Nhà nước nơi thu khoản thuế còn phải nộp: Kho bạc Nhà nước nơi hoàn trả hạch toán hoàn trả theo quy định; chuyển số tiền được hoàn trả cùng với lệnh thu ngân sách nhà nước của cơ quan thuế cho Kho bạc Nhà nước nơi thu thuế để làm căn cứ hạch toán thu ngân sách nhà nước theo đúng nội dung ghi trên lệnh thu; thanh toán tiền hoàn thuế còn thừa (nếu có) cho người nộp thuế.
10.5. Về gia hạn nộp thuế
a) Người nộp thuế gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc khó khăn bất khả kháng khác (di chuyển địa điểm kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà doanh nghiệp phải ngừng hoạt động và làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, kinh doanh; do chính sách Nhà nước thay đổi ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh và khó khăn khách quan đặc biệt khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính) dẫn đến không có khả năng nộp thuế đúng hạn thì được gia hạn nộp thuế theo đề nghị của người nộp thuế.
b) Tuỳ theo mức độ khó khăn, người nộp thuế được gia hạn nộp toàn bộ hay từng phần số thuế phải nộp theo văn bản đề nghị gia hạn nộp thuế của người nộp thuế gửi cơ quan quản lý thuế.
c) Thời gian gia hạn: Không quá hai năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế đối với trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ; không quá một năm đối với trường hợp gặp khó khăn bất khả kháng khác.
Người nộp thuế không bị phạt chậm nộp tính trên số tiền thuế nợ trong thời gian gia hạn nộp thuế.
d) Thẩm quyền gia hạn nộp thuế: Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế trực tiếp quyết định số tiền thuế gia hạn và thời gian gia hạn.
Cơ quan thuế có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ đề nghị gia hạn nộp thuế và khi tiếp nhận phải đóng dấu ghi thời gian tiếp nhận và số liệu, tài liệu trong hồ sơ ghi vào sổ văn thư.
Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, cơ quan thuế có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho người nộp thuế hoàn chỉnh hồ sơ nếu hồ sơ chưa đầy đủ.
Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ đề nghị gia hạn nộp thuế của người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế trực tiếp có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ và thực tế khó khăn của người nộp thuế để ra văn bản chấp thuận hay không chấp thuận việc gia hạn nộp thuế.
10.6. Về nộp thuế trong thời gian giải quyết khiếu nại, khởi kiện
– Trong thời gian giải quyết khiếu nại, khởi kiện của người nộp thuế về số tiền thuế do cơ quan quản lý thuế tính hoặc ấn định, người nộp thuế vẫn phải nộp đủ số tiền thuế đó, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định tạm đình chỉ thực hiện quyết định tính thuế, quyết định ấn định thuế của cơ quan quản lý thuế.
– Trường hợp số tiền thuế đã nộp lớn hơn số tiền thuế được xác định theo quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan có thẩm quyền hoặc bản án, quyết định của Toà án thì người nộp thuế được hoàn trả số tiền thuế nộp thừa và được trảtiền lãi tính trên số tiền thuế nộp thừa.
11. Trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế
11.1. Hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh
– Người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế. Cơ quan quản lý xuất nhập cảnh có trách nhiệm dừng việc xuất cảnh của cá nhân trong trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế theo thông báo của cơ quan quản lý thuế.
– Cơ quan thuế thông báo bằng văn bản cho cơ quan quản lý xuất nhập cảnh dừng việc xuất cảnh khi người nộp thuế chưa hoàn thành nghĩa vụ thuế bao gồm cả trường hợp phát hiện người nộp thuế là cá nhân có dấu hiệu bỏ trốn khỏi Việt nam mà chưa hoàn thành nghĩa vụ thuế.
11.2. Hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động
Việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp doanh nghiệp giải thể, phá sản được thực hiện theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật phá sản. Doanh nghiệp chấm dứt hoạt động chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì phần thuế nợ còn lại do chủ sở hữu doanh nghiệp chịu trách nhiệm nộp. Hộ gia đình, cá nhân chấm dứt hoạt động kinh doanh chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì phần thuế nợ còn lại do chủ hộ gia đình, cá nhân chịu trách nhiệm nộp.
11.3. Hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp
– Doanh nghiệp bị chia có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trước khi thực hiện chia doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp bị chia chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì các doanh nghiệp mới được thành lập từ doanh nghiệp bị chia có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế.
– Doanh nghiệp bị tách, bị hợp nhất, bị sáp nhập có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trước khi tách, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp; nếu chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì doanh nghiệp bị tách và các doanh nghiệp mới được thành lập từ doanh nghiệp bị tách, doanh nghiệp hợp nhất, doanh nghiệp nhận sáp nhập có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế.
– Doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trước khi chuyển đổi; trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì doanh nghiệp mới được thành lập từ doanh nghiệp chuyển đổi có trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế.
– Việc tổ chức lại doanh nghiệp không làm thay đổi thời hạn nộp thuế của doanh nghiệp bị tổ chức lại. Trường hợp doanh nghiệp được tổ chức lại hoặc các doanh nghiệp thành lập mới không nộp thuế đầy đủ theo thời hạn nộp thuế đã quy định thì bị xử phạt theo quy định của pháp luật.
11.4. Việc kế thừa nghĩa vụ nộp thuế của cá nhân là người đã chết, người mất năng lực hành vi nhân sự hoặc người mất tích theo quy định của pháp luật dân sự
– Việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của người được pháp luật coi là đã chết do người được thừa kế thực hiện trong phần tài sản của người đã chết để lại hoặc phần tài sản người thừa kế được chia tại thời điểm nhận thừa kế. Trong trường hợp không có người thừa kế hoặc tất cả những người thuộc hàng thừa kế không nhận thừa kế tài sản thì việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của người đã chết thực hiện theo quy định của pháp luật dân sự.
– Việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của người mất tích hoặc người mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật do người quản lý tài sản của người mất tích hoặc người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện trong phần tài sản của người đó.
– Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì số tiền nợ đã xoá được phục hồi lại nhưng không bị tính tiền phạt chậm nộp cho thời gian bị coi là đã chết, mất tích, hoặc mất năng lực hành vi dân sự.
11.5. Xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế
Người nộp thuế có quyền đề nghị cơ quan thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế và trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế, cơ quan thuế có trách nhiệm ra văn bản xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.
12. Thủ tục hoàn thuế
Cơ quan quản lý thuế trực tiếp thực hiện giải quyết thủ tục hoàn thuế cho người nộp thuế đối với trường hợp người nộp thuế được hoàn thuế theo chính sách (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, nhập khẩu) hoặc trường hợp người nộp thuế có số thuế đã nộp lớn hơn số thuế phải nộp.
12.1. Hồ sơ hoàn thuế
Hồ sơ hoàn thuế bao gồm:
– Văn bản yêu cầu hoàn thuế;
– Chứng từ nộp thuế;
– Các tài liệu khác liên quan đến yêu cầu hoàn thuế.
12.2. Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế trong việc tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế
Cũng như việc tiếp nhận các hồ sơ thuế khác, công chức thuế tiếp nhận đóng dấu tiếp nhận hồ sơ, ghi thời gian nhận hồ sơ, ghi nhận số lượng tài liệu trong hồ sơ. Trường hợp gửi qua đường bưu chính thì phải đóng dấu ghi nhận hồ sơ và ghi vào sổ văn thư của cơ quan thuế. Trường hợp hồ sơ được nộp qua giao dịch điện tử thì hồ sơ được nộp chấp nhận thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử.
Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, nếu hồ sơ hoàn thuế chưa đầy đủ thì cơ quan thuế phải thông báo cho người nộp thuế để hoàn chỉnh hồ sơ.
12.3. Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế
Cơ quan thuế phải có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ và hoàn thuế cho người nộp thuế theo đúng thời hạn quy định.
Để thực hiện theo quy định của Luật, cơ quan thuế phải phân loại hồ sơ hoàn thuế:
Nhóm 1: Hoàn thuế trước, kiểm tra sau áp dụng đối với hồ sơ của người nộp thuế có quá trình chấp hành tốt pháp luật về thuế và các giao dịch được thanh toán qua ngân hàng thương mại hoặc tổ chức tín dụng khác.
Nhóm 2: Kiểm tra trước, hoàn thuế sau áp dụng đối với:
– Người nộp thuế đề nghị hoàn thuế lần đầu.
– Người nộp thuế đã có hành vi trốn thuế, gian lận về thuế trong thời hạn hai năm tính từ thời điểm đề nghị hoàn thuế trở về trước.
– Người nộp thuế không thực hiện giao dịch thanh toán qua ngân hàng theo quy định.
– Doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi hình thức sở hữu, chấm dứt hoạt động; giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước.
– Hết thời hạn theo thông báo của cơ quan quản lý thuế nhưng người nộp thuế không giải trình, bổ sung hồ sơ hoàn thuế theo yêu cầu.
– Hàng hoá nhập khẩu thuộc diện Nhà nước quản lý theo quy định của pháp luật.
12.4. Thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế
– Đối với hồ sơ thuộc diện hoàn thuế trước, kiểm tra sau thì chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ hoàn thuế, cơ quan quản lý thuế phải quyết định hoàn thuế hoặc thông báo về việc chuyển hồ sơ sang diện kiểm tra trước, hoàn thuế sau hoặc thông báo lý do không hoàn thuế.
– Đối với hồ sơ thuộc diện kiểm tra trước, hoàn thuế sau thì chậm nhất là sáu mươi ngày, kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ hoàn thuế, cơ quan quản lý thuế phải quyết định hoàn thuế hoặc thông báo lý do không hoàn thuế.
– Quá thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế, nếu việc chậm ra quyết định hoàn thuế do lỗi của cơ quan quản lý thuế thì ngoài số tiền thuế phải hoàn, cơ quan quản lý thuế còn phải trả tiền lãi cho người nộp thuế. Thời gian tính trả lãi là thời gian chậm hoàn thuế theo quy định. Lãi suất để tính tiền lãi là lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố và có hiệu lực tại thời điểm cơquan quản lý thuế ra quyết định hoàn trả tiền thuế.
Cơ quan quản lý thuế ra quyết định hoàn thuế và ra lệnh thu ngân sách trong trường hợp người nộp thuế vừa có số tiền hoàn thuế, vừa có số tiền thuế, tiền phạt còn nợ.
13. Thủ tục miễn, giảm thuế
13.1. Trường hợp người nộp thuế tự xác định số tiền thuế được miễn thuế, giảm thuế
– Người nộp thuế tự xác định số thuế được miễn thuế, giảm thuế hoặc không phải nộp thuế và khai báo với cơ quan quản lý thuế trong hồ sơ khai thuế.
– Tài liệu liên quan đến việc xác định miễn thuế, giảm thuế là một phần của hồ sơ khai thuế.
13.2. Trường hợp cơ quan thuế quyết định miễn thuế, giảm thuế
Cơ quan thuế trực tiếp kiểm tra hồ sơ và ra quyết định miễn thuế, giảm thuế đối với các trường hợp sau đây:
– Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho hợp tác xã có mức thu nhập bình quân tháng trong năm của mỗi lao động dưới mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định đối với công chức nhà nước.
– Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo phương pháp khoán có mức thu nhập thấp.
– Miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho cá nhân, hộ cá thể kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán nếu nghỉ kinh doanh liên tục từ 15 ngày trở lên trong tháng được xét giảm 50% số thuế phải nộp; nếu nghỉ cả tháng thì được xét miễn thuế của tháng đó.
– Miễn thuế tài nguyên đối với sản phẩm rừng tự nhiên do dân cư trên địa bàn xã có rừng được phép khai thác.
– Miễn hoặc giảm thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên, thuế thu nhập cá nhân, tiền thuê đất, thuê mặt nước, thuế nhà, đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp cho người nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, địch họa, tai nạn bất ngờ, bị lỗ hoặc không có khả năng nộp thuế.
13.3. Hồ sơ miễn thuế, giảm thuế
– Trường hợp người nộp thuế tự xác định số tiền thuế được miễn thuế, giảm thuế, hồ sơ gồm có:
+ Tờ khai thuế;
+ Tài liệu liên quan đến việc xác định số thuế được miễn, số thuế được giảm.
– Trường hợp cơ quan quản lý thuế quyết định miễn thuế, giảm thuế thì hồ sơ miễn thuế, giảm thuế gồm có:
+ Văn bản đề nghị miễn thuế, giảm thuế trong đó nêu rõ loại thuế đề nghị miễn, giảm; lý do miễn thuế, giảm thuế; số tiền thuế được miễn, giảm;
+ Tài liệu liên quan đến việc xác định số thuế được miễn, số thuế được giảm.
14. Thủ tục xóa nợ tiền thuế, tiền phạt
14.1. Trường hợp được xoá nợ tiền thuế, tiền phạt bao gồm:
– Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản thanh toán theo quy định của pháp luật phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt.
– Cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản để nộp tiền thuế, tiền phạt còn nợ.
14.2. Hồ sơ xóa nợ tiền thuế, tiền phạt bao gồm:
– Văn bản đề nghị xoá nợ tiền thuế, tiền phạt của cơ quan thuế quản lý trực tiếp người nộp thuế thuộc diện được xoá nợ tiền thuế, tiền phạt theo mẫu quy định;
– Tờ khai quyết toán thuế đến thời điểm Toà án ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp (đối với trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản);
– Tài liệu liên quan đến việc đề nghị xoá nợ tiền thuế, tiền phạt: Bản sao quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Toà án; Giấy tờ chứng minh cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật dân sự.
14.3. Trình tự giải quyết hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt
– Cơ quan thuế quản lý trực tiếp lập hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt gửi đến cơ quan thuế cấp trên theo trình tự sau:
+ Chi cục thuế gửi cho cục thuế hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt của người nộp thuế thuộc phạm vi quản lý của chi cục thuế.
+ Cục thuế gửi cho Tổng cục thuế hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt của người nộp thuế thuộc phạm vi quản lý của cục thuế và của hồ sơ do chi cục thuế chuyển đến.
– Trường hợp hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt chưa đầy đủ thì trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, cơ quan thuế cấp trên phải thông báo cho cơ quan đã lập hồ sơ để hoàn chỉnh hồ sơ.
– Trong thời hạn sáu mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt, người có thẩm quyền phải ra quyết định xoá nợ hoặc thông báo trường hợp không thuộc diện được xoá nợ tiền thuế, tiền phạt.
14.4. Thẩm quyền xoá nợ tiền thuế, tiền phạt và báo cáo Quốc hội
– Bộ trưởng Bộ Tài chính uỷ quyền Tổng cục trưởng Tổng cục thuế xem xét hồ sơ và ra quyết định xóa nợ tiền thuế, tiền phạt theo quy định của pháp luật.
– Trên cơ sở quyết định xoá nợ, cơ quan thuế quản lý số tiền thuế nợ, tiền phạt được xoá có trách nhiệm thông báo với cơ quan tài chính cùng cấp để tổng hợp vào số quyết toán thu ngân sách năm.
– Số tiền thuế, tiền phạt đã được xóa hằng năm được tổng hợp theo quyết toán ngân sách các cấp và được Bộ trưởng Bộ Tài chính báo cáo Quốc hội khi Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn Tổng quyết toán ngân sách nhà nước.
15. Thông tin về người nộp thuế
Hệ thống thông tin về người nộp thuế là cơ sở cho việc quản lý thuế hiện đại, dựa trên kỹ thuật quản lý rủi ro; đồng thời là cơ sở để ngành thuế phân tích, dự báo số thu phục vụ công tác điều hành thu của ngân sách nhà nước. Tại Chương IX Luật quy định về thông tin về người nộp thuế theo đó, thông tin về người nộp thuế bao gồm những thông tin liên quan đến nghĩa vụ thuế của người nộp thuế. Trên cơ sở phân tích thông tin về người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế tập trung vào quản lý các đối tượng có nhiều khả năng vi phạm pháp luật thuế, đồng thời giảm phiền hà cho đối tượng chấp hành tốt pháp luật thuế.
15.1. Xây dựng, thu thập, xử lý và quản lý hệ thống thông tin về người nộp thuế
Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm tổ chức, xây dựng, quản lý và phát triển cơ sở dữ liệu, hạ tầng kỹ thuật của hệ thống thông tin về người nộp thuế; tổ chức đơn vị chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thu thập, xử lý thông tin; đơn vị chuyên trách quản lý cơ sở dữ liệu và đảm bảo duy trì, vận hành hệ thống thông tin về người nộp thuế. Luật cũng có quy định cơ quan quản lý thuế áp dụng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để thu thập, xử lý thông tin theo mục tiêu và yêu cầu của từng giai đoạn cũng như việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan để trao đổi thông tin, kết nối mạng trực tuyến.
15.2. Trách nhiệm của người nộp thuế trong việc cung cấp thông tin
Luật quản lý thuế quy định bảo đảm cho việc xây dựng hệ thống thông tin tổng hợp và toàn diện về người nộp thuế. Người nộp thuế có trách nhiệm cung cấp thông tin, cụ thể:
-Cung cấp đầy đủ thông tin trong hồ sơ thuế;
-Cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế;
-Thông tin cung cấp cho cơ quan quản lý thuế phải đầy đủ, chính xác, trung thực, đúng thời hạn.
15.3. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin cho cơ quan thuế như: cơ quan cấp đăng ký kinh doanh, Kho bạc nhà nước, ngân hàng, tổ chức tín dụng, cơ quan quản lý nhà nước về nhà, đất, cơ quan công an, cơ quan chi trả thu nhập, cơ quan quản lý thương mại…
15.4. Bảo mật thông tin của người nộp thuế và công khai thông tin vi phạm pháp luật về thuế
Cơ quan thuế sử dụng thông tin về người nộp thuế cho mục đích quản lý thuế phải có trách nhiệm bảo mật thông tin của người nộp thuế, trừ trường hợp phải cung cấp thông tin của người nộp thuế theo yêu cầu của các cơ quan như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Tòa án; cơ quan thanh tra, cơ quan kiểm toán nhà nước; cơ quan quản lý thuế nước ngoài phù hợp với điều ước quốc tế về thuế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…
Trong các trường hợp người nộp thuế trốn thuế, gian lận thuế, chây ỳ nộp thuế không đúng thời hạn, vi phạm pháp luật về thuế làm ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ nộp thuế của các tổ chức, cá nhân khác, không thực hiện yêu cầu của cơ quan quản lý thuế theo quy định của pháp luật thì cơ quan quản lý thuế có quyền công khai các thông tin vi phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế trên phương tiện thông tin đại chúng.
16. Kiểm tra thuế, thanh tra thuế
16.1. Nguyên tắc kiểm tra thuế, thanh tra thuế
– Thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
– Không cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là người nộp thuế.
– Tuân thủ quy định của Luật quản lý thuế và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
16.2. Kiểm tra thuế
Theo quy định tại Điều 77 và Điều 78 Luật quản lý thuế thì các hồ sơ thuế gửi đến cơ quan thuế đều được kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, chứng từ trong hồ sơ thuế nhằm đánh giá sự tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế.
Việc kiểm tra thuế được thực hiện tại trụ sở cơ quan thuế hoặc tại trụ sở của người nộp thuế.
Đối với hình thức kiểm tra tại trụ sở của cơ quan quản lý thuế được thực hiện thường xuyên đối với các hồ sơ thuế nhằm đánh giá tính đầy đủ, chính xác của các thông tin, chứng từ trong hồ sơ thuế, sự tuân thủ pháp luật về thuế của người nộp thuế. Việc kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế được thực hiện trong trường hợp khi xử lý kết quả kiểm tra thuế tại trụ sở cơ quan thuế, hết thời hạn thông báo của cơ quan thuế mà người nộp thuế không giải trình, bổ sung thông tin, tài liệu hoặc không khai bổ sung hồ sơ hoặc bổ sung, giải trình không đúng, hoặc kiểm tra sau thông qua đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo kế hoạch, chọn mẫu… Đây là biện pháp nghiệp vụ thường xuyên của cơ quan thuế để đánh giá chất lượng kê khai thuế của người nộp thuế và giám sát việc tuân thủ pháp luật của người nộp thuế.
16.3. Thanh tra thuế
a) Việc thanh tra thuế chỉ được tiến hành đối với các trường hợp sau:
– Đối với doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng thì thanh tra định kỳ một năm không quá một lần.
– Khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế. Đối với trường hợp này, chỉ được tiến hành thanh tra khi có căn cứ xác định người nộp thuế khai thiếu nghĩa vụ thuế, trốn thuế, gian lận thuế nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
– Để giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính.
b) Việc thanh tra thuế được thực hiện căn cứ vào kế hoạch thanh tra hàng năm trừ các trường hợp: thanh tra khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế; thanh tra để giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Kế hoạch thanh tra phải được lập trên cơ sở phân tích thông tin về người nộp thuế, từ đó phát hiện, lập danh sách người nộp thuế có dấu hiệu bất thường trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế để lựa chọn đối tượng lập kế hoạch thanh tra. Kế hoạch thanh tra bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây: đối tượng thanh tra, kỳ thanh tra, loại thuế thuộc diện thanh tra, thời gian dự kiến tiến hành thanh tra.
Kế hoạch thanh tra của cơ quan thuế cấp dưới phải được gửi đến cơ quan thuế cấp trên. Trường hợp có sự trùng lặp về đối tượng thanh tra thì cơ quan thuế cấp trên sẽ thực hiện kế hoạch thanh tra với đối tượng thanh tra đó.
Trường hợp cơ quan thanh tra nhà nước có kế hoạch thanh tra về thuế trùng với kế hoạch thanh tra của cơ quan thuế thì ưu tiên kế hoạch thanh tra thuế của cơ quan thanh tra nhà nước.
16.4. Thủ tục áp dụng các biện pháp trong thanh tra thuế đối với trường hợp có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế
a) Thu thập thông tin liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế
Thủ trưởng cơ quan thuế có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân có thông tin liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế cung cấp thông tin bằng văn bản hoặc trả lời trực tiếp.
b) Tạm giữ tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế
Thủ trưởng cơ quan thuế, Trưởng đoàn thanh tra thuế có quyền quyết định tạm giữ tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
Quyết định tạm giữ tang vật, tài liệu phải thể hiện các nội dung chính sau: tài liệu, tang vật bị tạm giữ, người thực hiện tạm giữ, cách thức tạm giữ (niêm phong tại chỗ, đưa đến nơi tạm giữ khác), thời gian tạm giữ. Quyết định tạm giữ được giao cho người có tài liệu, tang vật bị tạm giữ.
Trong quá trình thanh tra thuế, nếu đối tượng thanh tra có biểu hiện tẩu tán, tiêu hủy tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế thì thanh tra viên thuế đang thi hành nhiệm vụ được quyền tạm giữ tài liệu, tang vật đó.
c) Khám nơi cất giấu tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế
– Việc khám nơi cất giấu tài liệu, tang vật được tiến hành khi có căn cứ về việc cất giấu tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế.
– Thủ trưởng cơ quan thuế có quyền quyết định khám nơi cất giấu tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế. Trường hợp nơi cất giấu tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế là nơi ở thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý địa bàn nơi có địa điểm bị khám.
Quyết định khám nơi cất giấu tài liệu, tang vật được lập thành văn bản, bao gồm nội dung chủ yếu sau đây: địa điểm khám, thành phần của đoàn khám, thời gian khám, hiệu lực của quyết định.
– Không được khám nơi cất giấu tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế vào ban đêm, ngày lễ, ngày tết, khi người chủ nơi bị khám có việc hiếu, việc hỉ, trừ trường hợp phạm pháp quả tang và phải ghi rõ lý do vào biên bản.
– Khi khám nơi cất giấu tài liệu, tang vật phải có mặt người chủ nơi bị khám và người chứng kiến. Khi khám tại trụ sở của cơ quan, tổ chức thì phải có mặt của đại diện cơ quan, tổ chức. Trường hợp người chủ nơi bị khám, người đại diện của cơ quan, tổ chức vắng mặt mà việc khám không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người chứng kiến.
– Những người có mặt khi khám không được rời khỏi nơi khám, không được trao đổi, liên lạc với nhau cho đến khi khám xong.
– Mọi trường hợp khám nơi cất giấu tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế đều phải có quyết định bằng văn bản và phải lập biên bản. Quyết định và biên bản khám nơi cất giấu tài liệu, tang vật phải được giao cho người chủ nơi bị khám một bản.
17. Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
17.1. Các trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế bao gồm:
– Người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế đã quá chín mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, nộp tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế theo quy định;
– Người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế khi đã hết thời hạn nộp tiền thuế;
– Người nộp thuế còn nợ tiền thuế, tiền phạt có hành vi phát tán tài sản, bỏ trốn.
17.2 Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, bao gồm:
a. Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; yêu cầu phong toả tài khoản;
b. Khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập;
c. Kê biên tài sản và bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của phápluật để thu đủ tiền thuế, tiền phạt;
d. Thu tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế do tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ;
e. Dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu;
g. Thu hồi mã số thuế; đình chỉ việc sử dụng hóa đơn;
h. Đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy phép kinh doanh, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề. Trong đó, biện pháp thu tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế do tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ là biện pháp mạnh để xử lý đối với trường hợp đối tượng cưỡng chế thuế tẩu tán tài sản.
17.3. Về trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế:
Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế thi hành quyết định cưỡng chế thuế và có nhiệm vụ tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đối tượng thuộc diện cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan chức năng cùng với cơ quan quản lý thuế thực hiện việc cưỡng chế thi hành quyết địnhhành chính thuế. Lực lượng cảnh sát nhân dân có trách nhiệm bảo đảm trật tự, an toàn, hỗ trợ cơ quan quản lý thuế trong quá trình cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế khi có yêu cầu của người ban hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết địnhhành chính thuế .
18. Xử lý vi phạm pháp luật thuế
18.1. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế đối với cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế
– Cơ quan quản lý thuế thực hiện không đúng theo quy định của Luật quản lý thuế, gây thiệt hại cho người nộp thuế thì phải bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế theo quy định của pháp luật. Trường hợp ấn định thuế, hoàn thuế sai do lỗi của cơ quan quản lý thuế thì cơ quan quản lý thuế phải bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế theo quy định của Luật quản lý thuế và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
– Công chức quản lý thuế tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật trong trường hợp:
+ Gây phiền hà, khó khăn cho người nộp thuế làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người nộp thuế;
+ Thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc xử lý sai quy định của pháp luật về thuế;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thông đồng, bao che cho người nộp thuế, tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sử dụng trái phép, chiếm dụng, chiếm đoạt tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế.
18.2. Xử lý vi phạm đối với người nộp thuế
a) Xử phạt đối với hành vi vi phạm thủ tục thuế
– Các hành vi vi phạm thủ tục thuế bao gồm:
+ Nộp hồ sơ đăng ký thuế sau ngày hết hạn nộp hồ sơ đăng ký thuế;
+ Nộp hồ sơ khai thuế trong khoảng thời gian chín mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế;
+ Nộp hồ sơ khai thuế trong khoảng thời gian từ ngày hết hạn phải nộp tờ khai hải quan đến trước ngày xử lý hàng hóa không có người nhận theo quy định của Luật hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu;
+ Khai không đầy đủ các nội dung trong hồ sơ thuế, trừ trường hợp người nộp thuế khai bổ sung trong thời hạn quy định;
+ Vi phạm các quy định về cung cấp thông tin liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế;
+ Vi phạm các quy định về chấp hành quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
– Không xử lý vi phạm thủ tục thuế trong trường hợp người nộp thuế được gia hạn thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, gia hạn thời hạn nộp thuế.
b) Xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền thuế
– Người nộp thuế có hành vi chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế thì phải nộp đủ tiền thuế và bị xử phạt 0,05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp.
– Người nộp thuế khai sai dẫn đến làm thiếu số tiền phải nộp hoặc không khai thuế nếu tự giác khắc phục hậu quả bằng cách nộp đủ số tiền thuế phải nộp trước khi cơ quan có thẩm quyền phát hiện thì bị xử phạt chậm nộp thuế, nhưng không bị xử phạt vi phạm thủ tục hành chính thuế, thiếu thuế, trốn thuế.
– Người nộp thuế tự xác định số tiền phạt chậm nộp căn cứ vào số tiền thuế chậm nộp, số ngày chậm nộp và mức xử phạt theo quy định. Trường hợp người nộp thuế không tự xác định hoặc xác định không đúng số tiền phạt chậm nộp thì cơ quan quản lý thuế xác định số tiền phạt chậm nộp và thông báo cho người nộp thuế biết.
– Trường hợp sau ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế, người nộp thuế chưa nộp tiền thuế và tiền phạt chậm nộp thì cơ quan quản lý thuế thông báo cho người nộp thuế biết số tiền thuế nợ và tiền phạt chậm nộp.
c) Xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn
Người nộp thuế đã phản ánh đầy đủ, trung thực các nghiệp vụ kinh tế làm phát sinh nghĩa vụ thuế trên sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ nhưng khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn hoặc khai sai (nhưng không thuộc các trường hợp quy định là trốn thuế, gian lận thuế) dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn thì phải nộp đủ số tiền thuế khai thiếu, nộp lại số tiền thuế được hoàn cao hơn và bị xử phạt 10% số tiền thuế khai thiếu, số tiền thuế được hoàn cao hơn và phạt tiền thuế chậm nộp trên số tiền thuế thiếu hoặc số tiền thuế được hoàn cao hơn.
d) Xử phạt đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế
Người nộp thuế có một trong các hành vi trốn thuế, gian lận thuế sau đây thì phải nộp đủ số tiền thuế theo quy định và bị phạt từ một đến ba lần số tiền thuế trốn:
– Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau chín mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định;
– Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp;
– Không xuất hoá đơn khi bán hàng hoá, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hoá đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hoá, dịch vụ đã bán;
– Sử dụng hoá đơn, chứng từ bất hợp pháp để hạch toán hàng hoá, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn;
– Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn;
– Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan trong thời gian sáu mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan;
– Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
– Cấu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hoá nhằm mục đích trốn thuế;
– Sử dụng hàng hoá được miễn thuế không đúng với mục đích quy định mà không khai thuế.
đ) Chuyển hồ sơ của trường hợp vi phạm pháp luật thuế có dấu hiệu hình sự:
Trong quá trình xử lý vi phạm pháp luật về thuế, nếu xét thấy tổ chức, cá nhân vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì người có thẩm quyền phải chuyển hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày phát hiện có dấu hiệu tội phạm.
Đối với những trường hợp đã ra quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế, nếu sau đó phát hiện hành vi vi phạm của tổ chức, cá nhân có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết hiệu lực truy cứu trách nhiệm hình sự, thì người đã ra quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế phải huỷ quyết định đó; trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày huỷ quyết định phải chuyển hồ sơ của đối tượng vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền. Cơ quan thuế chuyển bộ hồ sơ gốc vụ vi phạm pháp luật về thuế cho cơ quan tiến hành tố tụng trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo về việc khởi tố vụ án hình sự.
Trường hợp cơ quan thuế đã chuyển hồ sơ, nhưng quá thời hạn ba ngày kể từ ngày hết hạn ra quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự (Điều 103) mà cơ quan thuế chưa nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án thì người có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật thuế phải ra quyết định xử phạt theo quy định của Luật quản lý thuế.
e) Miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế
– Người bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế có quyền đề nghị miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế trong trường hợp gặp thiên tai, hoả hoạn, tai nạn bất ngờ hoặc trường hợp bất khả kháng khác.
– Không miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế đối với các trường hợp đã thực hiện quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế của cơ quan quản lý thuế hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
18.3. Xử lý vi phạm với tổ chức, cá nhân khác
a) Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác không thực hiện trách nhiệm trích chuyển từ tài khoản của người nộp thuế vào tài khoản của ngân sách nhà nước đối với số tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế phải nộp của người nộp thuế theo yêu cầu của cơ quan quản lý thuế thì tuỳ theo từng trường hợp cụ thể xử lý như sau:
– Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác không bị xử phạt trong trường hợp tại thời điểm đó tài khoản tiền gửi của người nộp thuế không còn số dư hoặc đã trích chuyển toàn bộ số dư tài khoản của người nộp thuế vào tài khoản của ngân sách nhà nước nhưng vẫn không đủ số tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế mà người nộp thuế phải nộp.
– Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác bị xử lý vi phạm trong trường hợp tại thời điểm đó tài khoản tiền gửi của người nộp thuế có số dư đủ hoặc thừa so với số tiền thuế, tiền phạt vi phạm pháp luật về thuế mà người nộp thuế phải nộp nhưng ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác không thực hiện trích toàn bộ hoặc một phần tương ứng số tiền phải nộp của người nộp thuế thì Ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng đó bị phạt số tiền tương ứng với số tiền không trích chuyển vào tài khoản của ngân sách nhà nước.
b) Người bảo lãnh việc thực hiện nghĩa vụ thuế phải nộp tiền thuế, tiền phạt thay cho người nộp thuế được bảo lãnh trong trường hợp người nộp thuế không nộp thuế vào tài khoản của ngân sách nhà nước hoặc vi phạm pháp luật về thuế.
c) Tổ chức, cá nhân có liên quan có hành vi thông đồng, bao che người nộp thuế trốn thuế, gian lận thuế, không thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
d) Tổ chức, cá nhân có liên quan không thực hiện trách nhiệm của mình theo quy định của Luật quản lý thuế thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
PHẦN TƯ LIỆU THAM KHẢO
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC
I. TRUNG QUỐC
Tính đến nay Luật quản lý về thu thuế của Trung Quốc đã thực hiện được gần 15 năm. Tiền thân của Luật quản lý về thu thuế Trung quốc là Điều lệ chung về quản lý thuế do Quốc vụ viện ban hành. Trong đó có những nội dung phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Sau một số năm thực hiện Điều lệ, vào năm 1992 Luật quản lý về thu thuế của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được ban hành, sau đó có sửa đổi bổ sung vào các năm 1995 và 2001.
Tháng 9 năm 2002 Quốc vụ viện (tương ứng Chính phủ của Việt nam) ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế. Có hơn 20 chế định hướng dẫn cụ thể thi hành Luật quản lý thuế như: đăng ký thuế, quản lý bảo đảm việc nộp thuế, công bố nợ thuế, cưỡng chế thu thuế, sắp đặt cấp ngân hàng để nộp thuế, phân loại người nộp thuế….
Hiệu quả của việc thực thi các văn bản hướng dẫn này rất tốt. Nợ thuế giảm thấp, trốn lậu thuế giảm và chi phí thu thuế thấp. Số thu về thuế chiếm khoảng 16,9% GDP Trung Quốc trong đó thuế giá trị gia tăng chiếm tỷ trọng lớn nhất – 50% số thu; tiếp đến là thuế thu nhập doanh nghiệp – 20% số thu.
Dưới đây là một số nội dung đáng chú ý của Luật quản lý về thu thuế của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa:
1. Về phạm vi của Luật quản lý thuế
Đây là luật về thủ tục, áp dụng với các loại thuế do cơ quan thuế quản lý. Luật quản lý về thu thuế cùng song song tồn tại với các luật về chính sách thuế cụ thể quy định cho từng sắc thuế.
Các chủ thể tham gia thực hiện Luật quản lý thuế gồm 3 nhóm: (1) Người nộp thuế và người có nghĩa vụ nộp thuế thay; (2) Cơ quan thuế gồm 4 cấp, cấp trung ương và 3 cấp địa phương; (3) Các ngành quản lý nhà nước và đơn vị liên quan như cơ quan nhà nước quản lý công thương, ngân hàng, cơ quan cấp giấy giám định chất lượng hàng hoá…
Liên quan đến nội dung này, Luật có một số quy định sau:
– Quy định thẩm quyền của Quốc vụ viện (Chính phủ), Luật giao Quốc vụ viện được quy định cụ thể những vấn đề về thu thuế, ngừng thu và việc miễn thuế, giảm thuế, thoái thuế, bù thuế. Đồng thời, nghiêm cấm các cơ quan, đơn vị và cá nhân không được (không có quyền) ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thu thuế, ngừng thu và việc miễn thuế, giảm thuế, thoái thuế, bù thuế.
– Quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan thuế, Chính quyền nhân dân địa phương (Uỷ ban nhân dân các cấp) và các cơ quan có liên quan được quy định rõ ràng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan để đảm bảo thực thi luật thuế một cách có hiệu quả. Theo đó, việc thu thuế thuộc trách nhiệm của cơ quan thuế. Cục thuế nhà nước và các chi cục thuế ở địa phương cần phải căn cứ vào phạm vi quản lý việc trưng thu thuế do Quốc vụ viện quy định để tiến hành riêng biệt việc quản lý thu thuế. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ thu thuế, không đơn vị hoặc cá nhân nào được cản trở cơ quan thuế thực thi nhiệm vụ.
Để Luật này được triển khai có hiệu quả, công tác phổ biến, tuyên truyền cũng được đặt ra và cơ quan thuế có nghĩa vụ phải thực hiện. Ngoài việc phải tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, cơ quan thuế còn phải cung cấp miễn phí các dịch vụ tư vấn về thuế cho người nộp thuế.
– Quy định về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức: chính quyền nhân dân địa phương các cấp phải tăng cường lãnh đạo hoặc phối hợp công tác quản lý thuế ở trong khu vực hành chính quản lý của mình; giúp đỡ cơ quan thuế thực thi nhiệm vụ theo pháp luật; các ngành và đơn vị hữu quan trong chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm giúp đỡ, hỗ trợ cơ quan thuế thi hành nhiệm vụ theo pháp luật.
– Quy định về quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế, Luật quy định người nộp thuế có nghĩa vụ khấu nộp thuế theo quy định của pháp luật. Để bảo vệ quyền lợi cho người nộp thuế, Luật còn quy định người nộp thuế có quyền bàn cãi đối với quyết định của cơ quan thuế, được quyền khiếu nại, khiếu kiện hành chính và yêu cầu cơ quan nhà nước bồi thường nếu gây thiệt hại cho người nộp thuế. Ngoài ra, người nộp thuế còn có thể đến cơ quan thuế tìm hiểu pháp luật về thuế và tình hình liên quan đến trình tự nộp thuế.
2. Hệ thống thông tin về người nộp thuế
Ngành thuế Trung quốc đang triển khai dự án “chế độ cửa sổ người nộp thuế”. Tất cả các thông tin liên quan đến thuế của một người nộp thuế được lưu giữ và khai thác tại một cửa sổ nhất định. Thông tin về người nộp thuế được xây dựng từ các nguồn:
– Do người nộp thuế khai báo.
– Cơ quan thuế tự điều tra.
– Các cơ quan có liên quan cung cấp: Cơ quan quản lý công thương cung cấp thông tin về cấp giấy chứng nhận hoạt động sản xuất kinh doanh; cơ quan quản lý chất lượng cung cấp thông tin về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; ngân hàng và tổ chức tín dụng cung cấp thông tin về mở tài khoản.
Trên cơ sở hệ thống thông tin về người nộp thuế, cơ quan thuế thực hiện đánh giá, phân loại người nộp thuế theo lịch sử chấp hành pháp luật thuế; đồng thời có biện pháp để kiểm soát thu thuế hiệu quả.
3. Đăng ký thuế
Người nộp thuế có hoạt động sản xuất, kinh doanh, trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được giấy phép kinh doanh, người nộp thuế phải nộp đơn đăng ký thuế với cơ quan quản lý thuế ở địa phương nơi diễn ra hoạt động kinh doanh hoặc nơi phát sinh nghĩa vụ thuế. Đồng thời người nộp thuế còn phải nộp các giấy tờ, tài liệu liên quan theo yêu cầu của cơ quan thuế.
Các đơn vị khấu trừ thuế phải đăng ký khấu trừ thuế với cơ quan thuế địa phương trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày phát sinh trách nhiệm khấu trừ thuế để được cấp giấy chứng nhận đăng ký khấu trừ thuế. Trong trường hợp đơn vị khấu trừ thuế đã hoàn thành thủ tục đăng ký thuế thì cơ quan thuế chỉ cần bổ sung thêm nội dung trách nhiệm khấu trừ thuế trong giấy chứng nhận đăng ký thuế mà không cần cấp một giấy chứng nhận khấu trừ thuế riêng cho đơn vị khấu trừ thuế đó.
Luật cũng có quy định bên cạnh trách nhiệm của người nộp thuế phải báo cáo với cơ quan thuế vụ về tài khoản mở tại ngân hàng, tổ chức tín dụng; ngân hàng, cơ quan tín dụng nơi người nộp thuế mở tài khoản có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ khi cơ quan thuế vụ có yêu cầu.
4. Khai thuế
Có 4 phương thức khai thuế: Khai trực tiếp tại cơ quan thuế, khai qua đường bưu chính, khai bằng mạng điện tử và khai thuế đơn giản.
Trong trường hợp người nộp thuế hoặc đơn vị khấu trừ nộp thuế do khó khăn bất khả kháng, không thể nộp hồ sơ khai thuế hoặc hồ sơ khấu trừ thuế đúng hạn thì được gia hạn nộp hồ sơ. Tuy nhiên, sau khi hết tình huống bất khả kháng thì người nộp thuế hoặc đơn vị khấu trừ thuế phải nộp báo cáo cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế xem xét và chấp nhận báo cáo trên cơ sở xem xét lý do và tình huống bất khả kháng của người nộp thuế hoặc đơn vị khấu trừ thuế.
Người nộp thuế được kê khai điều chỉnh trong thời gian ba năm, kể từ ngày nộp hồ sơ khai thuế; trường hợp đặc biệt có thể trong thời gian năm năm.
Trường hợp khai thiếu theo số cơ quan thuế tính thì người nộp thuế không phải nộp phạt; khai thiếu do tự bản thân người nộp thuế tạo ra thì bị nộp phạt.
5. Nộp thuế
Người nộp thuế nộp tiền vào kho bạc hoặc nộp qua ngân hàng. Chỉ trường hợp ở vùng sâu, vùng xa không có kho bạc, ngân hàng thì cơ quan thuế trực tiếp thu tiền thuế.
Chỉ cơ quan thuế cấp tỉnh mới có thẩm quyền cho phép gia hạn nộp thuế. Thực tế đã có bất cập: Lý do xin gia hạn lại xảy ra ở địa phương có thể thấp hơn cấp tỉnh 1 đến 2 cấp. Vì vậy, cơ quan thuế cấp tỉnh khó có thể nắm bắt được tình hình thực tế xảy ra ở địa phương để có quyết định đúng đắn.
Trường hợp nộp thừa theo số cơ quan thuế tính thì người nộp thuế được nhận tiền lãi tính trên số thuế nộp thừa. Số thuế nộp thừa do người nộp thuế để xảy ra thì không được hưởng lãi.
6. Quản lý nợ thuế
Phạt chậm nộp thuế là 5 phần vạn/ ngày. Cơ quan thuế có quyền huỷ bỏ chuyển giao tài sản của người nộp thuế nếu người nộp thuế còn đang nợ thuế Nhà nước; công bố công khai số nợ thuế của người nộp thuế; đình chỉ không cho cá nhân nợ thuế đi nước ngoài.
Không có quy định xoá nợ cho người nộp thuế đang còn tồn tại. Chỉ khi người nộp thuế chết (đối với thể nhân) hoặc bị phá sản theo quyết định của pháp luật (đối với pháp nhân) thì số nợ thuế còn lại không có nguồn thu mới được xoá khỏi sổ theo dõi của cơ quan thuế.
7. Cưỡng chế thuế
Cơ quan thuế chủ yếu sử dụng 2 biện biện pháp trong cưỡng chế thuế: (1) phong toả tài khoản cho tiền vào mà không cho chi tiền ra; (2) kê biên, phát mại tài sản để thu tiền thuế.
Cơ quan thuế cấp tỉnh phê duyệt biện pháp cưỡng chế thuế; cơ quan quản lý thuế trực tiếp tổ chức cưỡng chế thuế. Trường hợp đặc biệt khó khăn thì có sự tham gia của cơ quan công an và chính quyền địa phương.
8. Kiểm tra thuế, thanh tra thuế
Trong thanh tra, kiểm tra thuế cơ quan thuế vụ có quyền:
– Yêu cầu người nộp thuế, người có nghĩa vụ khấu nộp cung cấp các văn bản, tài liệu chứng minh và tư liệu hữu quan đến việc nộp thuế, khấu nộp thay, thu nộp thay;
– Kiểm tra sổ sách tài khoản, chứng từ ghi sổ, báo biểu và các tài liệu hữu quan của người nộp thuế, kiểm tra sổ sách về tiền thuế khấu nộp thay, thu nộp thay, chứng từ ghi sổ và các tài liệu hữu quan của người có nghĩa vụ khấu nộp;
– Đến địa điểm sản xuất kinh doanh và nơi để hàng hoá vật tư của người nộp thuế để kiểm tra hàng hoá vật tư hoặc tài sản khác của người nộp thuế, kiểm tra tình hình kinh doanh có liên quan đến người có nghĩa vụ khấu nộp và khoản tiền thuế khấu nộp thay, thu nộp thay;
– Tới các bến xe, bến tàu, sân bay, doanh nghiệp bưu chính và các cơ quan phân chi nhánh của người nộp thuế để kiểm tra hoá đơn, chứng từ và các tư liệu hữu quan đến hàng hoá vật tư hoặc các tài sản khác phải nộp thuế mà người nộp thuế đã gửi vận tải, gửi bưu điện chuyển;
– Kiểm tra tài khoản tiền gửi của người nộp thuế, người có nghĩa vụ khấu nộp mở tại ngân hàng hoặc cơ quan tín dụng khác.
– Trong quá trình kiểm tra, nếu phát hiện ra người nộp thuế có hành vi trốn thuế và có dấu hiệu rõ rệt về chuyển dịch, cất giấu hàng hoá vật tư và tài sản, thì cán bộ kiểm tra thuế có thể sử dụng biện pháp cưỡng chế tịch thu tài sản, hàng hoá để bảo toàn thuế.
Nhân viên cơ quan thuế khi được cử đi kiểm tra về thuế cần phải xuất trình thẻ kiểm tra thuế vụ và giấy thông báo kiểm tra thuế, đồng thời có trách nhiệm giữ bí mật cho người bị kiểm tra. Nếu chưa xuất trình thẻ kiểm tra thuế vụ và giấy thông báo kiểm tra thuế, thì người bị kiểm tra có quyền từ chối kiểm tra.
Các tài liệu mà cơ quan thuế vụ kiểm tra tìm hiểu thu được, không được dùng vào mục đích ngoài thu thuế.
9. Điều tra thuế
Điều tra thuế là điều tra hành chính. Kết quả điều tra do cơ quan thuế thực hiện chỉ để xử lý hành chính. Nếu vụ việc phải tiến hành theo pháp luật hình sự thì cơ quan điều tra tố tụng hình sự phải thực hiện điều tra để có căn cứ luận tội tại Toà án.
Khi cơ quan thuế vụ tiến hành kiểm tra thuế theo pháp luật, có quyền điều tra đối với đơn vị và cá nhân hữu quan về tình hình liên quan giữa người nộp thuế, người có nghĩa vụ khấu nộp, những người đương sự khác. Các đơn vị và cá nhân hữu quan có nghĩa vụ cung cấp đúng sự thực cho cơ quan thuế vụ các tài liệu hữu quan và các tư liệu chứng minh.
Chỉ cơ quan thuế cấp tỉnh có bộ phận điều tra thuế, trong đó có cán bộ trực tiếp tiến hành công việc điều tra. Bộ phận phụ trách điều tra ở Trung ương chỉ làm công việc chỉ đạo và phối hợp các bộ phận điều tra cấp tỉnh với nhau.Khi điều tra vụ án vi phạm pháp luật thuế, cơ quan thuế vụ có thể ghi chép, ghi âm, ghi hình, chụp ảnh và phục chế các tư liệu liên quan đến vụ việc điều tra.
Tóm lại, trong thời gian mười lăm năm áp dụng Luật quản lý về thu thuế, Trung Quốc đã vừa triển khai, vừa rút kinh nghiệm và hoàn thiện thêm các quy định mới để phù hợp với thực tế. Luật quản lý thuế Trung Quốc đã tạo cơ sở pháp lý để người nộp thuế, cơ quan thuế và các bên có liên quan chấp hành tốt các luật chính sách thuế. Ý thức của người nộp thuế đã thành nề nếp. Cơ quan thuế có trách nhiệm rõ ràng và quyền lực đủ mạnh để giám sát người nộp thuế. Số thu thuế tăng dần từ 14% GDP lên 16%GDP trong mấy năm gần đây.
II. NƯỚC CỘNG HÒA CROATTIA
Croattia là một nước được tách ra từ Nam Tư (cũ). Không như Trung Quốc ban hành riêng Luật quản lý về thu thuế, ở nước cộng hoà Croattia các nội dung về thủ tục áp dụng các loại thuế do cơ quan thuế quản lý được quy định trong Luật thuế chung. Luật thuế chung được ban hành năm 2000 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2003.
Luật thuế chung của nước Cộng hoà Croattia được ban hành để điều chỉnh mối quan hệ giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế, áp dụng và cưỡng chế thực hiện các quy định đối với thuế và các khoản thu khác của nhà nước, và đồng thời cũng là quy định pháp lý đặc biệt xử lý từng sắc thuế riêng biệt và các khoản thu khác không được quy định ở các luật khác.
Dưới đây là một số nội dung cơ bản của Luật liên quan đến quản lý thuế:
1. Phạm vi điều chỉnh
Đây là Luật chung về thuế, quy định thủ tục hành chính chung và được áp dụng đối với các thủ tục mà cơ quan thuế áp dụng khi thực hiện các quy định về thuế. Luật xác định, cơ quan thuế là cơ quan hành chính của chính phủ quốc gia, cơ quan tự trị vùng, cơ quan tự trị địa phương trong lãnh thổ về việc tính thuế, quản lý và thu thuế và các khoản thu khác của Nhà nước.
Các khoản thu của Nhà nước được quy định trong Luật này bao gồm: Các loại thuế, thuế nhập khẩu, phí và các khoản đóng góp và các khoản thu của Nhà nước được áp dụng thông qua việc cưỡng chế thi hành luật và bằng các quyết định của cơ quan đại diện ở các đơn vị tự trị của vùng các các cơ quan tự trị địa phương theo quy định của pháp luật.
2. Đại lý được uỷ quyền, người hỗ trợ và người tư vấn thuế
Luật thuế chung quy định về đại lý được uỷ quyền, người hỗ trợ và người tư vấn thuế như sau:
(i) Đại lý được uỷ quyền là người đại diện cho đối tượng nộp thuế theo khuôn khổ của giấy uỷ quyền và đại lý này có thể thay mặt cho đối tượng nộp thuế tham gia các hoạt động liên quan đến thủ tục thuế.
Luật cũng quy định việc đại lý uỷ quyền được nhận thông báo thuế thay đối tượng nộp thuế trong trường hợp đối tượng nộp thuế không có trụ sở đăng ký hoặc địa chỉ thường trú hoặc trụ sở chính trên lãnh thổ của nước Cộng hoà Croatia, đối tượng nộp thuế đó phải thông báo cho cơ quan thuế về đại lý được ủy quyền nhận thông báo thuế trong thời hạn quy định.
(ii) Người hỗ trợ là người hành động khi có mặt đối tượng nộp thuế và hỗ trợ đối tượng nộp thuế bằng những lời khuyên. Các báo cáo do người hỗ trợ lập chỉ được coi là báo cáo của đối tượng nộp thuế nếu đối tượng nộp thuế không phủ nhận báo cáo đó. Người hỗ trợ không được uỷ quyền tham gia các hoạt động liên quan đến thủ tục thuế với tư cách đại lý của đối tượng nộp thuế.
(iii) Tư vấn thuế là người cung cấp dịch vụ tư vấn cho đối tượng nộp thuế trước cơ quan thuế. Tư vấn thuế phải có giấy uỷ quyền mới được hoạt động như một đại lý được uỷ quyền của đối tượng nộp thuế.
3. Quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế
Luật quy định đối tượng nộp thuế là doanh nghiệp có nghĩa vụ sau:
(i) Duy trì sổ sách kinh doanh và tài liệu để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tính thuế phù hợp với các quy định pháp lý điều chỉnh từng sắc thuế. Việc lưu giữ sổ sách phải thực hiện phù hợp với các quy định hiện hành và theo cách tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem xét tổng quan về hoạt động của doanh nghiệp và các giao dịch kinh doanh và việc phát sinh, phát triển và kết luận của các chuyên gia bên thứ ba.
(ii) Lưu giữ chứng từ và sổ sách, theo đó việc ghi chép và các bút toán khác phải được thực hiện đầy đủ, chính xác, nhất quán và kịp thời. Phiếu thu và phiếu chi (doanh thu bằng tiền) sẽ được ghi chép hàng ngày khi phát sinh. Việc nhập dữ liệu vào sổ sách kinh doanh sẽ được dựa trên các các chứng từ đầy đủ và trung thực.
(iii) Báo cáo cơ quan thuế các sự kiện, thông tin cần thiết đối với việc tính thuế, theo đó các sự kiện và thông tin được xác định chủ yếu là việc thành lập, sắp xếp lại và đóng cửa công ty, xưởng hoặc đơn vị hoạt động hoặc việc bắt đầu thực hiện các hoạt động thương mại, và thay đổi trụ sở hoặc địa điểm thường trú và các sự kiện khác cần phải báo cáo theo các quy định đặc biệt… thời hạn nộp báo cáo sẽ là ba mươi ngày, kể từ ngày có hiệu lực của các sự kiện có nghĩa vụ phải báo cáo.
Cùng với các nghĩa vụ phải thực hiện, đối tượng nộp thuế còn có các quyền:
(i) Tham gia vào quá trình thực hiện các thủ tục về nộp thuế bằng cách cung cấp các thông tin đầy đủ và chính xác cần thiết cho việc tính thuế và cung cấp bằng chứng về tất cả các xác nhận.
(ii) Đệ đơn khiếu nại về những quyết định thực hiện trong các tiến trình thuế của cơ quan thuế trong vòng ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thuế.
4. Thông báo thuế và khai thuế
Thông báo thuế được ban hành với các hình thức, bảo đảm cơ quan thuế thực hiện tốt quyền thu thuế, theo đó thông báo có thuế có thể ban hành bằng văn bản hoặc thông báo bằng miệng. Việc thông báo bằng miệng sẽ do cán bộ thuế được uỷ quyền của cơ quan thuế thực hiện. Nội dung của thông báo thuế gồm: (i) Tên của cơ quan thuế, số thống báo và ngày ban hành; (ii) Tên hoặc chức vụ của đối tượng nhận; (iii) Căn cứ pháp lý và (iv) Chữ ký của cán bộ được uỷ quyền.
Đối tượng nhận Thông báo thuế là các đối tượng tham gia vào thủ tục thuế. Nếu đối tượng tham gia có đại lý uỷ quyền, thì cơ quan thuế sẽ gửi thông báo thuế đến cho đại lý được uỷ quyền.
– Về khai thuế: có hai hình thức, khai theo tờ khai hoặc khai bằng miệng, cụ thể là:
(i) Theo hình thức tờ khai, đối tượng nộp thuế phải nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế theo mẫu và tự tính số thuế ghi vào tờ khai thuế của mình. Yêu cầu đặt ra là: Dữ liệu trên các tờ khai thuế phải chính xác và trung thực; tờ khai thuế phải nộp kèm với các tài liệu theo các quy định về thuế…
(ii) Trong một số trường hợp đặc biệt không thể nộp tờ khai dưới dạng viết, thì đối tượng nộp thuế có thể điền tờ khai thuế bằng cách thu âm và gửi đến cho cán bộ thuế.
5. Trợ giúp các vấn đề về thuế
Luật quy định các cơ quan Trung ương và chính quyền địa phương trợ giúp cơ quan thuế trong việc tiến hành các thủ tục về thuế. Theo đó, cơ quan thuế có quyền yêu cầu được trợ giúp trong các trường hợp sau:
(i) Trường hợp theo qui định cơ quan thuế không thể tự mình tiến hành các hành động chính thức;
(ii) Thiếu thiết bị cần thiết để tiến hành một hành động chính thức;
(iii) Cơ quan thuế tự tiến hành hành động chính thức sẽ tốn kém hơn rất nhiều so với việc cơ quan được yêu cầu giúp đỡ thực hiện.
Nếu cơ quan được yêu cầu từ chối giúp đỡ thì một cơ quan cấp cao hơn có thẩm quyền hoặc, một cơ quan giám sát sẽ quyết định về nghĩa vụ giúp đỡ (nếu không có cơ quan có thẩm quyền cao hơn).
Các cơ quan công quyền thuộc chính quyền trung ương, chính quyền địa phương và chính quyền tự trị có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan thuế các sự kiện họ nắm được khi thực hiện các công việc thuộc thẩm quyền của mình cũng như những dấu hiệu về các khoản thuế chưa nộp.
6. Kiểm tra, thanh tra
Việc kiểm tra là một trong những nội dung quan trọng của Luật, được xác định là một công cụ hữu hiệu để cơ quan thuế tiến hành xác minh, xác định các sự việc cần thiết cho việc đánh thuế. Việc kiểm tra được tiến hành đối với mọi người nộp thuế và những người khác nắm giữ các thông tin và bằng chứng cần thiết cho việc đánh thuế.
Nội dung kiểm tra được quy định trong Luật gồm:
(i) Các hoạt động kiểm tra bao gồm việc xác minh rõ ràng và kĩ lưỡng tất cả các sự việc cần thiết cho việc đánh thuế người nộp thuế (điều tra toàn diện).
(ii) Tuỳ theo hoàn cảnh, các hoạt động kiểm tra có thể giới hạn trong thẩm tra các hoạt động riêng biệt hoặc các sự việc cần thiết cho việc đánh thuế (kiểm tra sơ lược).
(iii) Các hoạt động kiểm tra bao gồm việc thẩm tra một hoặc nhiều loại thuế, một hoặc nhiều kỳ thuế.
(iv) Nếu doanh nghiệp là một cá nhân, việc kiểm tra có thể bao gồm các sự việc không liên quan đến hoạt động kinh doanh của người đó.
(v) Việc kiểm tra các công ty hoặc liên doanh sẽ bao gồm cả việc thẩm tra những mối quan hệ giữa người chủ và công ty nếu cần thiết cho việc đánh thuế.
Thời gian kiểm tra được quy định cụ thể như sau:
(i) Các hoạt động kiểm tra có thể được tiến hành trước thời hiệu về quyền xác định nghĩa vụ thuế.
(ii) Các hoạt động kiểm tra những người nộp thuế lớn sẽ được tiếp tục tới kỳ đánh thuế cuối cùng của lần kiểm tra trước (kiểm tra liên tục).
(iii) Trong giới hạn bộ Luật này, những người nộp thuế lớn bao gồm những người nộp thuế có nghĩa vụ thuế phải nộp hàng năm, bao gồm nhiều loại thuế, vượt quá 50.000.000 HRK và những công ty chi nhánh.
(iv) Theo luật, các hoạt động kiểm tra đối với các người nộp thuế khác bao gồm kì đánh thuế cuối cùng đã đưa ra mức thuế phải nộp. Các hoạt động kiểm tra này có thể mở rộng đến các kỳ đánh thuế trước nếu có dấu hiệu cho thấy việc điều tra sẽ làm thay đổi đáng kể nghĩa vụ thuế được xác định.
Thẩm quyền kiểm tra: Được tiến hành thanh tra hoặc những công chức được chỉ định theo các điều luật liên quan đến từng loại thuế.
Trình tự, thủ tục kiểm tra được quy định như sau:
(i) Cơ quan thuế ban hành Lệnh (Quyết định) kiểm tra bằng văn bản, trong đó xác định đối tượng và thời gian kiểm tra; ngày bắt đầu kiểm tra và công chức được giao nhiệm vụ kiểm tra.
(ii) Gửi Lệnh (Quyết định) kiểm tra cho đối tượng được kiểm tra trong vòng ba mươi ngày trước khi kiểm tra đối với người nộp thuế lớn và trước mười lăm ngày đối với những người nộp thuế khác.
(iii) Thực hiện kiểm tra:
– Trước khi bắt đầu kiểm tra, viên chức được giao nhiệm vụ kiểm tra phải cho người nộp thuế xem các văn bản chính thức xác nhận tư cách của mình. Địa điểm, ngày giờ bắt đầu kiểm tra phải được ghi trong báo cáo kiểm tra.
– Nếu người nộp thuế tin rằng hoạt động kiểm tra được tiến hành không tuân theo đúng nội dung lệnh kiểm tra thì người nộp thuế có quyền khiếu nại lên cơ quan thuế ra lệnh kiểm tra. Người đứng đầu cơ quan thuế đó có trách nhiệm ra quyết định về khiếu nại và thông báo cho người nộp thuế trong vòng ba ngày.
– Quyết định về khiếu nại là quyết định cuối cùng, sau đó không cho phép bất cứ một khiếu nại nào về quyết định đó.
Địa điểm và thời gian kiểm tra:
(i) Hoạt động kiểm tra được tiến hành tại nơi làm việc của người nộp thuế. Người nộp thuế có nghĩa vụ cung cấp không gian làm việc và các trợ giúp cần thiết cho mục đích kiểm tra.
(ii) Nếu không có không gian làm việc cần thiết để tiến hành hoạt động kiểm tra thì hoạt động kiểm tra sẽ được tiến hành tại trụ sở của cơ quan thuế hoặc nơi ở của người nộp thuế với sự đồng thuận của người nộp thuế. Nếu hoạt động kiểm tra không thể tiến hành tại nơi làm việc của người nộp thuế thì viên chức được giao nhiệm vụ tiến hành kiểm tra phải khám xét nơi làm việc đó và có ghi chú chính thức.
(iii) Viên chức được giao nhiệm vụ kiểm tra có quyền tới các địa điểm và cơ sở nơi người nộp thuế tiến hành các hoạt động của mình và khám xét những cơ sở ấy. Người nộp thuế hoặc người đại diện, người được uỷ quyền của người nộp thuế được phép tham dự vào việc khám xét.
(iv) Hoạt động kiểm tra được tiến hành trong giờ hành chính. Các hoạt động kiểm tra được phép tiến hành ngoài giờ hành chính nếu có sự đồng thuận của người nộp thuế hoặc do yêu cầu bắt buộc của hoạt động kiểm tra.
(v) Nếu một công việc trong hoạt động kiểm tra không thể hoàn tất trong giờ hành chính và người nộp thuế đồng ý tiếp tục công việc sau giờ hành chính thì cơ quan thuế có thể tạm thời niêm phong nơi làm việc và kho chứa.
(vi) Việc niêm phong tạm thời nêu trên không được kéo dài quá thời điểm bắt đầu ngày làm việc tiếp theo của người nộp thuế.
(vii) Quyết định về việc niêm phong tạm thời là quyết định cuối cùng và không được khiếu nại.
Nguyên tắc kiểm tra:
(i) Các hoạt động kiểm tra phải quan tâm đồng đều đến mọi sự việc, cả những sự việc có lợi và những sự việc có hại đến lợi ích của người nộp thuế.
(ii) Các hoạt động kiểm tra phải tập trung vào những vấn đề thiết yếu dẫn đến việc tăng hoặc giảm nghĩa vụ thuế phải đóng hoặc dẫn đến việc phân bổ nghĩa vụ thuế phải đóng vào nhiều kỳ thuế khác nhau. Đặc biệt, các hoạt động kiểm tra phải giới hạn thời gian trong mức độ cần thiết.
III. NƯỚC CỘNG HÒA HUNGARI
Luật quản lý thuế của nước Cộng hoà Hungary ban hành năm 2003. Đây là đạo luật nhằm quản lý các thủ tục thu thuế với một nhận thức nhất quán phù hợp với các quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế để đảm bảo tính pháp lý và thành công khi thực hiện các thủ tục này.
Một số nội dung đáng chú ý của Luật quản lý thuế Hungary:
1. Phạm vi điều chỉnh
Luật quản lý thuế của nước Cộng hoà Hungary điều chỉnh hệ thống thu thuế và các khoản nộp ngân sách bổ sung đối với: các pháp nhân đăng ký hoặc có cơ sở kinh doanh hoặc tham gia vào các hoạt động kinh tế tại Hungary; các cá nhân có cơ sở thường trú hoặc địa điểm cư trú, hoặc sống ở Hungary trên bất cứ một phương tiện nào khác; các cá nhân, các pháp nhân và các tổ chức khác nắm giữ tài sản hoặc tạo ra bất cứ loại thu nhập (lợi tức) nào ở Hungary; các đối tượng tham gia vào quản lý tài sản hoặc tố tụng toà án.
Đạo Luật này không áp dụng đối với các khoản hưởng lợi từ bảo hiểm xã hội và đối với các khoản thanh toán theo luật định (thuế tài sản, thuế quan, phí, lệ phí, đóng góp, chi phí, phạt, lợi tức thuộc phạm vi của Luật hải quan, tố tụng hải quan, và quản lí hải quan nếu việc xác định, thu, điều hành, hoàn trả, giải ngân hoặc kiểm soát các khoản trên thuộc phạm vi quyền hạn của cơ quan hải quan). Tuy nhiên, liên quan đến các khoản nợ hải quan, các qui định tại đạo luật này sẽ được áp dụng đối với các quyền của cơ quan thuế trong việc khấu trừ thuộc về các khoản trợ cấp ngân sách.
Việc xác định, thu, điều hành, hoàn trả, giải ngân hoặc kiểm soát các khoản sau thuộc phạm vi quyền hạn cuả cơ quan thuế: các khoản thanh toán theo luật định liên quan đến thuế, các khoản đóng góp, nghĩa vụ phải thanh toán cho ngân sách trung ương theo qui định của Luật, các quĩ ngân sách bổ sung, các quĩ bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm sức khoẻ hoặc các chính quyền tự trị địa phương (sau đây gọi chung là “thuế”); các khoản trợ cấp được thanh toán từ ngân sách trung ương hoặc từ các quĩ ngân sách bổ sung theo các qui định tại một đạo luật của Quốc hội, các nghị định của Chính phủ hoặc các Bộ (sau đây gọi chung là “trợ cấp ngân sách”); các thủ tục liên quan với các khoản thu và trợ cấp ngân sách này;
2. Về cơ quan thuế và cơ chế giám sát đối với cơ quan thuế
a. Cơ quan thuế gồm: cơ quan quản lý kiểm soát tài chính và thuế và các chi nhánh của nó (sau đây gọi chung là “cơ quan thuế quốc gia”); Tổng cục trưởng hải quan và Giám sát tài chính Hungary và các đại lí của nó (sau đây gọi chung là “cơ quan hải quan”); các đại diện uỷ quyền của chính quyền tự trị địa phương (sau đây gọi chung là “cơ quan thuế địa phương”); các văn phòng hải quan.
Luật quy định: “để cưỡng chế các nghĩa vụ thuế trong phạm vi quyền hạn của mình và các quyền có liên quan của đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế sẽ mở các tài khoản cho các giao dịch liên quan đến việc nộp thuế, thông báo công khai số hiệu của các tài khoản này, thiết kế các tài liệu cần thiết và đảm bảo các cơ sở cần thiết để thu thuế”. Quy định này tạo thuận lợi cho cơ quan thuế trong việc chủ động thực thi các công cụ quản lý việc thu thuế có hiệu quả. Mặt khác, để tăng cường sự hợp tác quốc tế, Luật quản lý thuế còn quy định cơ quan thuế Hungary sẽ hợp tác với cơ quan thuế của Cộng đồng Châu Âu và đại diện có thẩm quyền của Uỷ ban Châu Âu để cưỡng chế thi hành các luật thuế của Cộng đồng Châu Âu.
b. Giám sát đối với cơ quan thuế: Bộ trưởng Bộ Tài chính sẽ kiểm soát tính pháp lý của hệ thống thu thuế, xem xét các hoạt động của cơ quan thuế và việc thực thi các qui định pháp luật và hiến pháp khác; quyết định quá trình phát triển và hoàn thiện của cơ quan thuế quốc gia…
3. Đăng ký thuế
Các thủ tục đăng ký thuế được quy định theo từng loại hình đối tượng nộp thuế:
– Đối tượng nộp thuế muốn tiến hành các hoạt động chịu thuế cần phải đăng ký mã số thuế với cơ quan thuế quốc gia, ngoại trừ các cá nhân không tham gia vào các hoạt động kinh doanh thương mại hoặc phát sinh tài sản đã được điều chỉnh bởi đạo luật thuế tài sản. Để có được một mã số thuế thì tuỳ thuộc loại hình hoạt động mà đối tượng nộp thuế phải đệ trình đơn và các giấy tờ tài liệu liên quan tới công chứng viên của chính quyền tự trị địa phương hoặc cho toà án có thẩm quyền về đăng ký hoặc cho cơ quan thuế quốc gia. Cơ quan thuế quốc gia sẽ thông báo cho đối tượng nộp thuế về việc đăng ký mã số thuế của họ trong phạm vi ba mươi ngày.
– Đối tượng nộp thuế phải đăng ký nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng khi phát sinh của hoạt động chịu thuế, phải kê khai báo cáo về hoạt động của mình cho cơ quan thuế quốc gia.
– Đối tượng nộp thuế theo báo cáo sẽ thông báo với cơ quan thuế về việc thực hiện đăng ký của mình. Nếu đối tượng nộp thuế là cá nhân chỉ phát sinh nghĩa vụ thuế địa phương thì cơ quan thuế nhà nước, khi có yêu cầu của cơ quan thuế địa phương sẽ cấp mã số thuế cho đối tượng nộp thuế đó. Đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ phải nộp từ khai thuế cho cơ quan thuế nhà nước nếu có tham gia các hoạt động chịu thuế. Trường hợp đối tượng nộp thuế có thể phát sinh nghĩa vụ thuế với cơ quan thuế nhà nước trong tương lai thì có thể sử dụng mã số đã cấp trước đây để kê khai nghĩa vụ thuế.
4. Xác định nghĩa vụ thuế
Người nộp thuế phải thực hiện tự kê khai, xác định nghĩa vụ thuế. Trường hợp, đối tượng nộp thuế đáp ứng các điều kiện về việc xác định nghĩa vụ thuế do cơ quan thuế thực hiện tính thuế theo quy định tại Luật thuế thu nhập cá nhân và là người không muốn thực hiện nghĩa vụ tự khai tự xác định nghĩa vụ thuế hoặc không muốn để chủ lao động tính thuế thay sẽ phải thông báo cho cơ quan thuế có thẩm quyền trước ngày 15/01 của năm sau năm thuế bằng việc kê khai theo mẫu quy định về dự định thực hiện nghĩa vụ thuế của mình thông qua cơ chế cơ quan thuế xác định nghĩa vụ thuế.
5. Khai thuế
– Khai thuế được tiến hành thông qua tờ khai thuế hoặc báo cáo chính thức. Việc nộp tờ khai thuế chỉ được nộp trước khi bắt đầu cuộc thanh tra. Trường hợp tờ khai thuế được chuyên gia thuế hoặc tư vấn viên về thuế xác nhận nếu có sai sót thì cơ quan thuế sẽ ấn định khoản phạt đã quy định sẵn đối với chuyên gia thuế hoặc tư vấn viên về thuế.
– Về việc chỉnh sửa tờ khai thuế:
Cơ quan thuế sẽ kiểm tra tờ khai thuế đã nộp phù hợp với đối tượng nộp thuế và sẽ chỉnh sửa các lỗi tính toán và các lỗi hành chính, đánh máy, nếu việc chỉnh sửa có ảnh hưởng đến số thuế phải nộp hoặc được hoàn thì phải thông báo cho đối tượng nộp thuế trong vòng ba mươi ngày, kể từ khi chỉnh sửa.
Đối tượng nộp thuế không nhất trí với việc chỉnh sửa nói trên có thể liên hệ với cơ quan thuế trong vòng mười lăm ngày, kể từ khi nhận được thông báo để sắp xếp việc giải quyết vấn đề. Nếu sự việc không thể giải quyết thông qua trao đổi, cơ quan thuế sẽ thực hiện thủ tục quản lý và xác định số thuế bằng việc ra quyết định. Việc chỉnh sửa tờ khai thuế không được hiểu là thanh tra, và quyết định về việc chỉnh sửa tính thuế theo quy trình này không được coi là thuế hồi tố (truy thu).
6. Quản lý các khoản thanh toán
Cơ quan thuế sẽ duy trì mỗi đối tượng nộp thuế một tài khoản về nghĩa vụ thuế và các khoản xin trợ cấp từ ngân sách của đối tượng nộp thuế cũng như các khoản nộp và rút tiền có liên quan đến tài khoản. Nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế sẽ được ghi chép trên cơ sở tờ khai thuế, kể cả các bảng tính tự hiệu chỉnh, các quyết định do cơ quan thuế ban hành. Trong khi đó các khoản thanh toán và chi trả sẽ được ghi chép trên cơ sở báo cáo của các tổ chức tài chính hoặc bưu điện. Cơ quan thuế thực hiện đăng ký nghĩa vụ thuế, các khoản nộp và rút tiền riêng biệt cho từng loại thuế và từng loại trợ cấp từ ngân sách. Cơ quan thuế nhà nước phải ghi chép các khoản thanh toán nhận được thay mặt cho quỹ Bảo hiểm lương hưu và quỹ Bảo hiểm y tế theo từng tài khoản riêng biệt. Trong trường hợp có sự chuyển đổi, bất kỳ khoản thanh toán trợ cấp từ ngân sách, tiền nộp thừa hoặc nợ thuế được ghi tại tài khoản của người tiền nhiệm sẽ được chuyển sang tài khoản của người kế nhiệm.
Vào 31/8 hàng năm cơ quan thuế trung ương và địa phương sẽ cấp thông báo hàng năm về số dư và lãi phạt nộp chậm đối với đối tượng nộp thuế là cá nhân hoặc vào 31/10 đối với các đối tượng nộp thuế khác (không là cá nhân). Cơ quan thuế chỉ hoàn trả số thuế nộp thừa khi đối tượng nộp thuế không có nợ thuế.
7. Thẩm quyền và đặc quyền của cơ quan thuế
Đây là điểm khác biệt của Luật quản lý thuế Hungary so với Luật quản lý thuế các nước khác. Luật quy định cụ thể thẩm quyền đặc biệt, thẩm quyền chung, thẩm quyền riêng của từng cấp (cơ quan thuế nhà nước, cơ quan thuế địa phương). Cụ thể:
– Cơ quan thuế nhà nước sẽ xử lý toàn bộ: các trường hợp liên quan đến các khoản thuế và trợ cấp ngân sách; các trường hợp hoàn thuế; các trường hợp cấp và đòi bảo lãnh chính phủ; các trường hợp thu các khoản nợ công được coi như thuế trừ các trường hợp đã thuộc thẩm quyền của các cơ quan quyền lực hoặc cơ quan thuế khác.
Cơ quan thuế nhà nước sẽ tiến hành thanh tra, thực hiện đánh giá hồi tố, và thực thi các nhiệm vụ cưỡng chế liên quan tới các khoản thanh toán hội viên bắt buộc cho các quỹ hưu trí tư nhân. Nếu được yêu cầu bởi một quỹ hưu trí tư nhân, cơ quan thuế sẽ tiến hành thanh tra và cưỡng chế ngay không trì hoãn.
Cơ quan thuế nhà nước sẽ có quyền hành động như một tổ chức đại diện của chủ nợ hoặc của ngườì tịch biên trong việc thi hành án đối với các trường hợp thanh lý, phá sản, tự nguyện giải thể, biên bản thực thi pháp lí, đối với các khoản nợ thuế quan và tiêu thụ đặc biệt phải nộp ngân sách trung ương, và trong việc thi hành án liên quan động sản hoặc bất động sản, kể cả việc cưỡng chế các khoản thu hồi của người có nghĩa vụ.
– Cơ quan thuế địa phương sẽ xử lý đối với: các sắc thuế địa phương; các sắc thuế đánh vào các phương tiện có động cơ đăng ký tại Hungary; các sắc thuế đánh vào các khoản thu nhập từ cho thuế đất trồng trọt (kể cả đất được giao); các khoản nợ công của các cá nhân được coi như các khoản thuế trong các trường hợp được quy định chi tiết trong Luật quản lý thuế.
8. Về thanh tra, kiểm tra
Để chống trốn thuế và bất kỳ hành vi xin trợ cấp và hoàn thuế phi pháp, cơ quan thuế sẽ thực thực hiện thanh tra thường xuyên các đối tượng nộp thuế và các đối tượng liên quan khác tham gia vào hệ thống thuế. Mục tiêu của công tác thanh tra này là thực thi các quy định của luật thuế và các quy định pháp lý khác và tìm ra bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào. Cơ quan thuế sẽ điều tra thực tế và hoàn cảnh của bất kỳ hành vi vi phạm nào và thu thập dữ liệu và thông tin làm bằng chứng để chứng minh cho những luận điểm trong quá trình ra quyết định sau này.
Việc kiểm tra, thanh tra sẽ được tiến hành thường xuyên hoặc định kỳ hoặc theo định hướng do người đứng đầu cơ quan thuế ban hành.
Luật quy định cơ quan thuế nhà nước sẽ thực hiện thanh tra 3.000 đối tượng nộp thuế lớn nhất liên quan đến khả năng về thuế (mối liên hệ ngân sách) trên cơ sở thường xuyên (ít nhất là mỗi năm một lần) đối với toàn bộ các loại thuế và trợ cấp ngân sách.
Ngoài các thủ tục thanh tra, kiểm tra nhà nước và trên cơ sở lựa chọn ngẫu nhiên, cơ quan thuế nhà nước cũng sẽ lựa chọn các đối tượng nộp thuế thanh tra thông qua hệ thống lựa chọn theo mục tiêu.
Thời hạn cơ quan thuế hoàn thành việc thanh tra theo dõi hoặc thanh tra giám sát tờ khai thuế trong vòng chín mươi ngày. Thời hạn thanh tra theo dõi và kiểm tra giám sát 3.000 đối tượng nộp thuế lớn về khả năng nộp thuế là 120 ngày.
Để việc thanh tra, kiểm tra đạt hiệu quả cao nhất, Luật quản lý thuế quy định nếu một đối tượng nộp thuế, đại diện hoặc nhân viên của đối tượng nộp thuế đó không thực hiện các nghĩa vụ có mặt mặc dù có trát hầu toà và không cung cấp lý do chính đáng về sự vắng mặt của mình thì người đứng đầu cơ quan thuế có có thể yêu cầu bắt đối tượng đó.
IV. NƯỚC CỘNG HÒA LATVIA
Việc quản lý thuế ở nước Cộng hoà Latvia được thực hiện trên cơ sở Luật về thuế và phí, Luật được thông qua ngày 02/02/1995 và có hiệu lực áp dụng từ ngày 01/4/1995.
Luật về thuế và phí của Latvia xác định các loại thuế và phí và quy định các thủ tục để xác định thuế và phí, thu và truy thu các loại thuế, phí đó; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các đối tượng nộp thuế, phí (sau đây được gọi là đối tượng nộp thuế) và quản lý các loại thuế và phí (sau đây được gọi là quản lý thuế) và thủ tục khiếu nại để quyết định các vấn đề về thuế và phí.
Một số nội dung đáng chú ý liên quan đến quản lý thuế của Luật về thuế và phí:
1. Về đối tượng nộp thuế
Theo quy định của Luật về thuế và phí của Latvia, đối tượng nộp thuế bao gồm thể nhân hoặc pháp nhân của Cộng hoà Latvia hoặc của quốc gia nước ngoài và các nhóm đối tượng đó hoặc các đại diện của các đối tượng này được hình thành trên cơ sở hợp đồng hoặc thỏa thuận là người thực hiện các hoạt động chịu thuế hoặc là người được đảm bảo về thu nhập trong tương lai. Đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế cụ thể bị tác động được xác định trong từng luật thuế cụ thể.
2. Về cơ quan thuế
Theo quy định của Luật về thuế và phí của Latvia việc quản lý thuế (phí) do cơ quan Thu nhà nước hoặc các cơ quan do cơ quan thu thành lập, các cán bộ được chỉ định hoặc các tổ chức được hội đồng thành phố (xã hoặc huyện) thuộc chính quyền địa phương thành lập hoặc các cơ quan nhà nước khác nếu được quy định trong luật cụ thể.
a. Nhiệm vụ của cơ quan thuế:
– Bảo đảm rằng Luật này và các luật thuế (phí) khác được tuân thủ nghiêm chỉnh bởi cả đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế;
– Kiểm soát tính chính xác của việc tính và nộp thuế (phí) ;
– Kiểm soát việc thanh toán tiền nợ thuế (phí);
– Áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với các đối tượng vi phạm luật thuế (phí) theo quy định pháp luật và văn bản hướng dẫn của Chính phủ;
– Kiểm tra và xác định các vấn đề liên quan đến nộp thuế phí và gia hạn thời gian;
– Kiểm soát tính chính xác của việc áp dụng miễn giảm thuế (phí);
– Thông báo cho đối tượng nộp thuế bằng văn bản về số chênh lệch giữa việc thanh toán theo kê khai và số thuế bị tính lại;
– Bảo đảm minh bạch trong thu thuế (phí) thông qua việc thường xuyên công bố thông tin về tổng số thu từ các loại thuế (phí) cụ thể và về các đối tượng nộp thuế có số nợ thuế (phí) lớn nhất;
– Công bố công khai các thay đổi về thủ tục xác định thuế suất, mức phí, tiền phạt và lệ phí nộp chậm;
– Ra quyết định và thông báo cho đối tượng nộp thuế về việc thực hiện rà soát (thanh tra) thuế, nêu rõ thời kỳ, loại thuế bị kiểm tra, các khoản mục kê khai thuế, phí hoặc các khoản nộp bắt buộc khác thuộc diện kiểm tra và các kỳ thuế có liên quan;
– Truy thu các khoản thuế, tiền phạt chưa nộp hoặc các khoản nợ gia tăng và lệ phí nộp chậm theo thủ tục rõ ràng;
– Bảo đảm điều kiện truy cập công khai vào dữ liệu đăng ký của các đối tượng đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng;
– Bảo đảm điều kiện truy cập công khai vào cơ sở dữ liệu đăng ký thống nhất về việc cấp chứng từ hóa đơn, vận đơn kế toán;
– Bảo đảm điều kiện truy cập đăng ký các thiết bị điện tử để sử dụng, người sử dụng, các nhà kinh doanh và dữ liệu thống nhất (đăng ký) về đối tượng; và
– Bảo đảm điều kiện truy cập công khai đối với thông tin về những đối tượng nộp thuế thuộc diện không áp dụng đăng ký với cơ quan đăng ký doanh nghiệp của Latvia.
b. Quyền của cơ quan thuế
Theo quy định của Luật về thuế và phí của Latvia, quyền của cơ quan thuế được xác định theo quy định của Luật về thuế và phí, Luật về cơ quan thu Nhà nước và các luật khác.
3. Quản lý các loại thuế cụ thể
Tại Latvia, mỗi loại thuế do một cơ quan quản lý khác nhau, cụ thể:
– Thuế thu nhập cá nhân do cơ quan thu nhà nước và chính quyền địa phương phù hợp với Luật thuế thu nhập cá nhân quản lý;
– Thuế thu nhập doanh nghiệp do cơ quan thu nhà nước quản lý;
– Thuế bất động sản do cơ quan thu nhà nước và chính quyền địa phương phù hợp với Luật thuế bất động sản quản lý;
– Thuế tiêu thụ đặc biệt do cơ quan thu nhà nước quản lý;
– Thuế giá trị gia tăng do cơ quan thu nhà nước quản lý;
– Thuế tài nguyên thiên nhiên do cơ quan thu nhà nước, Bộ Bảo vệ Môi trường và Phát triển vùng miền và chính quyền địa phương phù hợp với Luật thuế tài nguyên thiên nhiên quản lý;
– Thuế xổ số và cờ bạc do cơ quan thu nhà nước quản lý;
– Thuế quan – cơ quan thu nhà nước quản lý; và
– Các khoản thu nộp bắt buộc về bảo hiểm xã hội do cơ quan thu nhà nước quản lý.
4.Cưỡng chế thi hành
Đối với các quyết định được ban hành như kết quả của việc kiểm soát (kiểm tra, kiểm toán) của cơ quan thuế, cũng như các quyết định liên quan đến việc truy thu các khoản thuế nộp chậm với điều kiện bắt buộc, cơ quan thuế có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây:
– Tịch thu động sản của người nợ;
– Ghi chép các dấu hiệu về yêu cầu cưỡng chế (các dấu hiệu cấm hoặc thế chấp) tại các cơ quan đăng kí đất đai, tàu thuyền và các cơ quan đăng kí tài sản khác;
– Cấm người nợ thực hiện một số hoạt động mà có xu hướng trốn thanh toán thuế; và
– Thu tài sản của người nợ đang được cất giữ bởi người thứ ba.
V. BANG TAXMANIA (ÔXTRÂYLIA)
Việc quản lý thuế ở bang Taxmania (Ôxtrâylia) được thực hiện trên cơ sở Luật quản lý thuế ban hành năm 2004 (Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2005)
Luật quản lý thuế được ban hành với mục đích quy định các thủ tục áp dụng đối với việc thu thuế thu nhập của tổ chức cá nhân, thuế lợi tức và thuế tài sản.
Một số nội dung đáng chú ý của Luật quản lý thuế Taxmania:
1. Quy định về thời hạn nộp thuế của các đối tượng nộp thuế (cá nhân, pháp nhân hoặc tổ chức hoạt động ở bang Taxmania). Theo đó, thời hạn nộp thuế được xác định theo các giao dịch hoặc thông báo của của cơ quan thuế và ngày bắt đầu của thời hạn này được căn cứ vào: (i) Tem thư theo dấu bưu điện; (ii) Ngày nhận được văn bản hoặc thống báo của cơ quan thuế cho đối tượng nộp thuế và (iii) Có thể được tính từ ngày nhân viên thu thuế thông báo trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.
2. Người đại diện của đối tượng nộp thuế
Luật quản lý thuế cho phép đại diện của người nộp thuế thực thi nhiệm vụ thay cho đối tượng nộp thuế. Người đại diện của đối tượng nộp thuế được xác định là: (i) người bảo trợ hoặc người giám hộ cho người chưa thành niên hoặc người thiếu năng lực dân sự; (ii) Người quản lý về mặt pháp lý một tài sản hoặc tài sản thừa kế hoặc người thừa kế tài sản đó; (iii) Chủ sở hữu doanh nghiệp; (iv) Thành viên trong công ty hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn; (v) Chủ tịch, giám đốc, người quản lý hoặc người đại diện của công ty; (vi) Người phụ trách, người giám hộ hoặc người đại diện của công ty hoặc bất kỳ người bảo lãnh hợp pháp nào khác theo quy định của pháp luật và (vii) Bất kỳ cổ đông nào được uỷ quyền cho người nộp thuế.
3. Thủ tục đăng ký thuế
Theo quy định của Luật thì tất cả các chủ thể khi thành lập doanh nghiệp hoặc có các hoạt động khác mà phát sinh nghĩa vụ nộp thuế trong thời hạn sớm nhất phải đăng ký thuế với cơ quan thuế trong vòng bảy ngày, kể từ ngày bắt đầu kinh doanh hoặc ngày thành lập.
Cũng theo quy định của Luật về thủ tục đăng ký thuế, khi đăng ký thuế, cơ quan thuế sẽ cấp cho mỗi đối tượng nộp thuế một mã số thuế. Mã số thuế này được sử dụng cho tất cả các loại thuế và việc quản lý nộp thuế của các đối tượng được thực hiện thông qua mã số thuế đã cấp.
4. Kê khai thuế
Luật quản lý thuế quy định rất chặt chẽ về chế độ kế toán và lưu giữ số sách, theo đó các đối tượng nộp thuế phải giữ sổ sách và chứng từ kế toán và ghi chép tất cả các nghiệp vụ có thể ảnh hưởng đến nghĩa vụ nộp thuế, nghĩa vụ khấu trừ thuế và nghĩa vụ cung cấp hồ sơ cho đại lý kê khai thuế.
Theo quy định của Luật thì việc tạm hoãn kê khai thuế cũng được đặt ra và áp dụng trong những trường hợp cụ thể do Tổng cục trưởng Tổng cục thuế quyết định đối với trường hợp có bằng chứng tin cậy về nguyên nhân và những khó khăn trong việc kê khai thuế đúng hạn của đối tượng nộp thuế. Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cũng có thể quyết định kéo dài thời hạn kê khai thuế của đối tượng nộp thuế, đồng thời gia hạn về thời hạn kê khai thuế nhưng không gây ảnh hưởng đến thời hạn nộp thuế và việc tính lãi chậm nộp thuế.
Đại lý kê khai thuế và nộp thuế cũng được quy định trong Luật, theo đó đại lý kê khai thuế được duy trì và sẵn sàng hoạt động dưới sự kiểm soát của cơ quan thuế.
5. Về việc phát hành thông báo ấn định thuế
Theo quy định của Luật thì cơ quan thuế sẽ ban hành thông báo ấn định thuế khi: (i) Đối tượng nộp thuế kê khai và nộp thuế không đúng hạn; (ii) Cơ quan thuế sử dụng quyền ban hành thông báo ấn định thuế theo quy định của pháp luật và (iii) Khi cơ quan thuế phát hiện những dấu hiệu nghiêm trọng cho thấy rằng có thể ảnh hưởng đến việc thu thuế được dự báo trước do tình hình tài chính của đối tượng nộp thuế hoặc đối tượng nộp thuế có ý định gây khó khăn cho công tác thu thuế. Theo quy định này thì trong vòng bảy ngày, kể từ khi nhận được thông báo ấn định thuế, đối tượng nộp thuế phải thực hiện nộp thuế.
6. Quy đ���nh về thanh tra và điều tra thuế
Để đảm bảo thực thi Luật, cũng như thực hiện triệt để, tận thu các khoản thuế, Luật quản lý thuế đã quy định thẩm quyền và các nội dung về thanh tra và điều tra thuế của cơ quan thuế. Theo quy định này, cơ quan thuế khi tiến hành thanh tra, điều tra về thuế được quyền yêu cầu đối tượng nộp thuế cung cấp sổ sách và các tài liệu có liên quan. Theo đó, bất cứ số sách hoặc tài liệu nào có liên quan bao gồm danh sách khách hàng và danh sách các nhà cung cấp phải được nộp đến cơ quan thuế trong vòng bảy ngày, trừ trường hợp đối tượng nộp thuế có khó khăn nhất định và chứng minh được với cơ quan thuế.
Theo quy định của Luật quản lý thuế thì trong quá trình thanh tra và điều tra thuế, cơ quan thuế còn có quyền yêu cầu các bên thứ ba có liên quan (bao gồm cả cơ quan nhà nước, toà án) cung cấp cho cơ quan thuế các thông tin cần thiết theo yêu cầu trong vòng mười lăm ngày để xác định nghĩa vụ nộp thuế của một đối tượng nhất định.
7. Quy định việc ấn định thuế của cơ quan thuế
Theo quy định của Luật quản lý thuế thì việc ấn định của cơ quan thuế được thực hiện khi cơ quan thuế phát hiện được lỗi tính toán, sự bỏ sót, trình bày sai, ước tính thấp hoặc bất kỳ một lỗi nào trong tờ khai thuế của đối tượng nộp thuế. Về thủ tục ấn định thuế được quy định cụ thể như sau:
– Cơ quan thuế sẽ gửi bản ước tính ấn định thuế tới đối tượng nộp thuế
– Đối tượng nộp thuế có quyền xem xét và giải trình bằng văn bản về bản ước tính ấn định thuế của cơ quan thuế trong vòng ba mươi ngày.
– Nếu cơ quan thuế phát hiện dấu hiệu gian lận nghiêm trọng thí có thể ban hành một bản ấn định ngay lập tức mà không cần lấy ý kiến của đối tượng nộp thuế.
– Hiệu lực của bản ước tính ấn định thuế là năm năm.
8. Cơ chế giải quyết khiếu nại
Theo quy định của Luật quản lý thuế thì việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại về quyết định ấn định thuế được thực hiện theo 3 cấp là Tổng cục trưởng Tổng cục thuế giải quyết lần đầu, trường hợp không đồng ý với quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế thì đối tượng nộp thuế có quyền khiếu nại lên Uỷ ban giải quyết khiếu nại và trong trường hợp cuối cùng có quyền khởi kiện tại Toà án. Cụ thể các bước giải quyết như sau:
– Khi đối tượng nộp thuế không đồng ý với bản ấn định thuế có thể khiếu nại lên Tổng cục trưởng Tổng cục thuế trong vòng ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được thông báo ấn định thuế.
– Căn cứ vào đơn khiếu nại của đối tượng nộp thuế, Tổng cục trưởng Tổng cục thuế xử lý và ra quyết định xử lý trong vòng ba mươi ngày và gửi quyết định cho đối tượng nộp thuế.
– Theo quy định của Luật quản lý thuế thì đối tượng nộp thuế cũng có quyền khiếu nại lên Uỷ ban giải quyết khiếu nại (Ủy ban này do Bộ trưởng Bộ Tài chính thành lập) trong trường hợp đối tượng nộp thuế không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Tổng Cục trưởng Tổng cục thuế.
– Trong trường hợp đối tượng nộp thuế không đồng ý với quyết định của Uỷ ban giải quyết khiếu nại thì có quyền đệ đơn kháng án. Đơn kháng án được trình lên Toà án cấp có thẩm quyền trong vòng ba mươi ngày, kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của Uỷ ban giải quyết khiếu nại.
9. Về việc tổ chức thực hiện, hướng dẫn thực hiện Luật quản lý thuế
Luật quy định, Tổng cục trưởng Tổng cục thuế có quyền ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Luật quản lý thuế. Tuy nhiên, khi đối tượng nộp thuế đang có kế hoạch tiến hành các giao dịch kinh doanh với số thuế phải nộp lớn vào ngân sách nhà nước, có thể yêu cầu áp dụng một quy chế riêng về thuế, quy chế này sẽ do Tổng cục trưởng Tổng cục thuế ban hành.
10. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế
Biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về thuế là “Tịch thu”, theo đó, cơ quan thuế sẽ thực hiện tịch thu bất kỳ tài sản của đối tượng nộp thuế, bao gồm cả động sản và bất động sản, bất kể tài sản đó do đối tượng nộp thuế hay cá nhân nào nắm giữ. Việc tịch biên và tài sản đó sẽ được thực hiện bằng cách đấu giá công khai.
Để thực thi triệt để việc thu thuế, Luật quản lý thuế còn quy định như sau:
– Quy định về nghĩa vụ của bên thứ ba có liên quan phải nộp thuế thay đối tượng nộp thuế, cụ thể là: Nếu thuế không được nộp trong vòng mười lăm ngày, cơ quan thuế có quyền yêu cầu bất kỳ ai là con nợ của đối tượng nộp thuế nộp số thuế phải nộp thuộc nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế.
– Quy định về quyền nhận tài sản thế chấp, theo đó cơ quan thuế có quyền nhận tài sản thế chấp đối với tất cả các loại thu nhập và động sản của đối tượng nộp thuế nắm giữ tại bất kỳ đâu. Đồng thời, cơ quan thuế cũng có quyền nhận tài sản cầm cố đối với tất cả các bất động sản của đối tượng nộp thuế ở bất kỳ đâu.
11. Về quyền của đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế có các quyền cụ thể như sau:
– Quyền được bảo mật, theo quy định của Luật quản lý thuế thì bất kỳ một cán bộ thuế nào cũng không được phép tiết lộ các thông tin về tình hình nộp thuế của đối tượng nộp thuế cho các cá nhân khác, ngoại trừ một số trường hợp được luật quy định.
– Quyền được hỏi ý kiến và cử người đại diện: Trong quá trình đàm phán với cơ quan thuế, đối tượng nộp thuế có quyền cử đại diện của mình là một người có năng lực, việc uỷ quyền phải thực hiện bằng văn bản uỷ quyền.
12. Quy định về tiền lãi và tiền phạt
– Đối với tiền lãi: Áp dụng trong trường hợp đối tượng nộp thuế không nộp thuế đúng thời gian quy định trong luật, tiền lãi được tính trên tổng số tiền thuế phải nộp theo lãi suất cố định của Liên ngân hàng trung ương Taxmania, cộng thêm 2% và sẽ được áp dụng cho năm hiện hành kể từ ngày 01/01 của năm đó.
Cách tính tiền lãi được quy định theo tháng (không tính gộp) và tính từ ngày phải nộp thế đến ngày đối tượng nộp thuế nộp thuế. Tiền lãi này vẫn phải nộp ngay cả khi đối tượng nộp thuế bắt đầu khiếu kiện hành chính hoặc khởi kiện tại Toà án về số tiền thuế phải nộp.
– Đối với tiền phạt: Việc ấn định một mức phạt chỉ thực hiện khi đối tượng nộp thuế hay bất kỳ cá nhân nào phải nộp phạt hành chính không thực hiện (i) Nộp tờ khai thuế không đúng hạn; (ii) Nộp bảng khấu trừ thuế không đúng hạn; (iii) Không nộp thuế; (iv) Không trả lời thông tin theo yêu cầu của cơ quan thuế; (v) Không hợp tác trong quá trình thanh tra thuế; (vi) Vi phạm các quy định khác được quy định trong Luật quản lý thuế.
Việc xử lý tiền phạt nộp chậm được thực hiện bằng việc phạt đối tượng nộp thuế số tiền phạt bằng 10% số tiền thuế phải nộp.
Trong trường hợp gian lận thuế, đối tượng nộp thuế sẽ bị phạt hành chính bằng 200% số tiền gian lận. Thêm vào đó, cơ quan thuế sẽ chuyển những trường hợp này để khởi tố hình sự, nếu bị kết tội, đối tượng nộp thuế phải bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm.
– Để đảm bảo thực thi, luật còn quy định bất kỳ cá nhân nào cản trở hoặc cố tình gây cản trở trong quá trình cơ quan thuế thi hành nhiệm vụ hoặc có hành vi hỗ trợ, tiếp tay, kích động hoặc có âm mưu cấu kết với các đối tượng khác vi phạm pháp luật về thuế thì đều bị xử phạt chung với đối tượng nộp thuế.
VI.BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
– Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước để phục vụ quốc gia, lợi ích công cộng, vì vậy cần có một bộ luật riêng quy định về việc quản lý thuế nhằm điều chỉnh toàn diện, áp dụng với tất cả các khâu trong quá trình chấp hành thực hiện nghĩa vụ các sắc thuế và khoản thu ngân sách nhà nước do cơ quan thuế, cơ quan hải quan quản lý; điều chỉnh tất cả các chủ thể có nghĩa vụ, trách nhiệm trong công tác quản lý thuế (người nộp thuế, cơ quan quản lý thuê, cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan).
Luật quản lý thuế ra đời tạo hành lang pháp lý cho đổi mới phương thức quản lý thuế từ cơ chế chuyên quản, người nộp thuế chuyển từ thụ động trong việc xác định nghĩa vụ thuế và nộp thuế sang cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp. Cơ chế này đề cao trách nhiệm của người nộp thuế trong việc chủ động xác định đúng số thuế phải nộp, thực hiện đúng thời hạn cũng như xác định các ưu đãi thuế, quyền lợi về thuế của mình.
Luật quản lý thuế tác động làm thay đổi phương thức quản lý của cơ quan thuế, chuyển từ quản lý truyền thống mang tính thủ công sang phương thức quản lý hiện đại dựa trên cơ sở dữ liệu thông tin tổng hợp và quản lý rủi ro.
Luật quản lý thuế đề cao trách nhiệm pháp lý của các cơ quan nhà nước, tổ chức cá nhân trong công tác quản lý thuế.
– Việc quản lý thuế phải thực hiện một số nội dung sau:
+ Quy định đầy đủ về việc đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; quản lý thông tin về người nộp thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế; cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; xử lý vi phạm pháp luật về thuế; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
+ Quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế để giúp người nộp thuế hoàn thành tốt nghĩa vụ thuế của mình.
+ Quy định cơ quan thuế có các quyền hạn để thực thi nhiệm vụ quản lý thuế có hiệu lực, hiệu quả.
+ Quy định trách nhiệm pháp lý của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong công tác quản lý thuế.
+ Quy định thống nhất trình tự, thủ tục hành chính thuế theo hướng minh bạch, tạo môi trường thông thoáng tiện lợi cho người nộp thuế.
+ Quy định về kiểm tra, thanh tra thuế nhằm giám sát quá trình chấp hành pháp luật về thuế.
+ Quy định các biện pháp nhằm ngăn chặn, xử lý nghiêm minh những người có hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
Tóm lại, việc đưa các nội dung quy định về quản lý thuế vào một Luật sẽ tạo điều kiện để hệ thống hoá và thực hiện thống nhất các quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế, bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch, thuận lợi giúp người nộp thuế hoàn thành nghĩa vụ thuế của mình và bảo đảm cho cơ quan quản lý thuế thực thi nhiệm vụ một cách hiệu quả.
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH
HỆ THỐNG THUẾ ĐẾN NĂM 2010
I. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẢI CÁCH THUẾ
1. Bối cảnh trong nước tác động đến cải cách thuế
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ 2001 – 2010 là đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, tăng trưởng kinh tế ở mức cao (bình quân 7% – 7,5%/năm); dự kiến đến năm 2010 đưa GDP lên gấp đôi năm 2000. Ổn định kinh tế vĩ mô, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30%/GDP. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp lên 40-41%/GDP, dịch vụ lên 42-43%/GDP, nông nghiệp giảm xuống còn 16-17%/GDP; đẩy mạnh xuất khẩu. Thu nhập dân cư và đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân được nâng cao một bước. An ninh, chính trị được giữ vững. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản.
Do đó, cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 phải nhằm thực hiện tốt chủ trương phát triển kinh tế xã hội nêu trên của Đảng và Nhà nước, đồng thời động viên đầy đủ, kịp thời các nguồn lực từ kết quả cải cách kinh tế mang lại.
2. Bối cảnh quốc tế và xu thế cải cách thuế của các nước tác động đến cải cách hệ thống thuế của Việt Nam
Xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hoá kinh tế ngày càng ở mức độ cao là tất yếu khách quan; tạo cơ hội cho nước ta có thể tranh thủ để tập trung vào phát triển kinh tế; tranh thủ những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới tạo đà thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh các ngành công nghiệp, dịch vụ.
Ngược lại, cũng xuất hiện thách thức lớn là sức ép cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ nước ngoài tăng mạnh. Nếu nước ta không tranh thủ được cơ hội; khắc phục yếu kém vươn lên để tồn tại, chiến thắng trong cạnh tranh, sẽ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới.
Về lĩnh vực thuế: Các cam kết hội nhập quốc tế đã ký sẽ được thực hiện ở mức độ cao hơn giai đoạn vừa qua: Đối với Hiệp định CEPT, AFTA đến năm 2006 hoàn thành việc cắt giảm thuế nhập khẩu, hơn 80% dòng thuế sẽ ở mức thuế suất 0%; đối với Hiệp định thương mại Việt Mỹ thì 224 dòng thuế nhập khẩu giảm bình quân 30%. Các mặt hàng dệt, may đã ký với EU mức thuế suất cũng sẽ giảm. Đặc biệt với việc gia nhập WTO, ảnh hưởng giảm thuế nhập khẩu sẽ lớn hơn. Dự kiến thuế nhập khẩu giảm do hội nhập đến năm 2010 sẽ lên tới 49,7 nghìn tỷ đồng (riêng năm 2010 giảm 10,6 nghìn tỷ đồng). Đi đôi với việc giảm thuế nhập khẩu còn phải xoá bỏ các quy định về thuế trái với các cam kết quốc tế như chống phân biệt đối xử quốc gia, xoá bỏ dần các hàng rào phi quan thuế, xoá bỏ việc dùng giá tối thiểu để tính thuế nhập khẩu… Từ năm 2003 nước ta cùng với các nước ASEAN sẽ đàm phán cụ thể khu vực mậu dịch tự do với Trung quốc và các nước khác. Trước tình hình đó, đòi hỏi cần phải cải cách hệ thống thuế cho phù hợp để vừa bảo hộ hợp lý có chọn lọc sản xuất trong nước, đặc biệt là các ngành kinh tế quan trọng đang còn non trẻ, khuyến khích đầu tư công nghệ mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm, ngành hàng và nền kinh tế lại vừa chủ động hội nhập, thực hiện chính sách mở cửa để thu hút đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu, đảm bảo ổn định và tăng trưởng nguồn thu ngân sách nhà nước.
Trong quá trình hội nhập, ngoài lĩnh vực thuế đầu tư trực tiếp (FDI), các hình thức đầu tư gián tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam sẽ ngày càng phong phú, đa dạng hơn, đòi hỏi các chính sách thuế cũng phải sửa đổi để bao quát đầy đủ và phù hợp với các hình thức đầu tư nói trên.
Mặt khác hội nhập kinh tế sẽ giúp cho nước ta có điều kiện học tập kinh nghiệm cải cách thuế của các nước. Xu thế cải cách thuế của các nước phát triển, đang phát triển, các nước có nền kinh tế chuyển đổi là hoàn thiện hệ thống thuế đều theo hướng: xoá bỏ hàng rào phi thuế quan; giảm mức bảo hộ về thuế quan để tự do hoá thương mại; giảm bớt số lượng thuế suất trong từng sắc thuế; không phân biệt đối xử quốc gia, không phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; mở rộng đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế; giảm ưu đãi chính sách xã hội, ban hành một số loại thuế mới: thuế tài sản, thuế bảo vệ môi trường … để thu ngân sách nhà nước. Về công tác quản lý thuế, nhiều nước đã và đang cải cách hành chính thuế theo hướng người nộp thuế tự khai, tự tính, tự nộp thuế vào ngân sách nhà nước; hệ thống thuế được tổ chức quản lý theo chức năng kết hợp với quản lý đối tượng nộp thuế, đưa nhanh công nghệ thông tin vào quản lý thuế; ban hành Luật quản lý thuế.
II – MỤC TIÊU CẢI CÁCH HỆ THỐNG THUẾ ĐẾN NĂM 2010
1 – Mục tiêu chiến lược cải cách hệ thống thuế: xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời với hiện đại hoá công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân của Đảng và Nhà nước, đảm bảo nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng xã hội.
2 – Mục tiêu cụ thể
Một là, chính sách thuế, phí (gọi chung là chính sách thuế) phải là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, vừa động viên được các nguồn lực đồng thời thúc đẩy phát triển nhanh sức sản xuất; khuyến khích xuất khẩu; khuyến khích đầu tư, khuyến khích đổi mới công nghệ; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Hai là, chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào ngân sách nhà nước, đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và giành một phần cho tích luỹ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện tỷ lệ động viên thuế và phí vào ngân sách nhà nước bình quân hàng năm 20- 21% GDP. Trong cơ cấu thu ngân sách, thuế gián thu vẫn chiếm tỷ trọng lớn (năm 2001 là 41,4%, năm 2010 khoảng 56,6%). Thuế gián thu tăng chủ yếu là do tăng trưởng kinh tế và do chuyển dịch kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Thuế trực thu tăng nhưng thấp hơn thuế gián thu (năm 2001: 21,6% và năm 2010: 24,4%) là do hiệu quả nền kinh tế chưa cao. Mặt khác, Nhà nước vẫn cần tiếp tục miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp để khuyến khích đầu tư, khuyến khích những ngành nghề, lĩnh vực và các địa bàn kém phát triển, có điều kiện khó khăn và đặc biệt khó khăn. Tỷ trọng các loại phí tăng nhưng không nhiều (năm 2001: 7,1%; năm 2010 khoảng 8,2%) do sắp xếp lại các khoản phí, lệ phí và xoá bỏ các khoản phí, lệ phí không phù hợp. Các nguồn thu khác giảm do thực hiện chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước. Miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp để khoan sức dân, tạo điều kiện phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Không thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước để doanh nghiệp nhà nước có thêm vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh…
Ba là, chính sách thuế phải phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế để thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia.
Bốn là, chính sách thuế phải từng bước tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng. Áp dụng hệ thống thuế thống nhất không phân biệt các thành phần kinh tế khác nhau.
Năm là, đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai; tách dần chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế; nhanh chóng hiện đại hoá và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế; khắc phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém trong quản lý thuế; kiện toàn bộ máy quản lý thuế trong sạch, vững mạnh.
III – NỘI DUNG CẢI CÁCH HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THUẾ
1- Ban hành mới các loại thuế
– Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử;
– Thuế bảo vệ môi trường;
– Thuế tài sản;
– Thuế sử dụng đất.
2- Sửa đổi, bổ sung đồng bộ các sắc thuế, phí hiện hành
– Thuế giá trị gia tăng;
– Thuế tiêu thụ đặc biệt;
– Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
– Thuế thu nhập doanh nghiệp;
– Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được sửa đổi thành thuế thu nhập cá nhân;
– Thuế tài nguyên;
– Phí, lệ phí.
3- Nội dung, lộ trình cải cách một số sắc thuế chủ yếu
Việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế cũng như mỗi sắc thuế cần phải căn cứ vào vai trò tác dụng của chúng đối với sự phát triển kinh tế xã hội theo chủ trương của Đảng và Nhà nước từng thời kỳ.
Hiện nay, trong hệ thống chính sách thuế thì thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là 3 loại thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước, có quan hệ mật thiết với nhau trong việc điều tiết thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá dịch vụ.
Thuế giá trị gia tăng điều tiết vào hầu hết hàng hoá dịch vụ sản xuất và tiêu dùng tại Việt Nam và có tính trung lập cao nên tác dụng lớn trong việc ổn định và tăng nguồn thu Ngân sách Nhà nước. Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế mà chức năng chính là điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, có tác dụng khuyến khích tối đa đối với hàng hoá xuất khẩu, bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn đối với sản xuất trong nước.
Khi thực hiện các cam kết quốc tế theo lộ trình hội nhập thì số thu về thuế nhập khẩu giảm khá lớn nhưng bù lại giá trị máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu nhập khẩu giảm làm cho chi phí đầu vào của sản xuất trong nước giảm, giá cả hợp lý, sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng trong nước ngày càng tăng thì các loại thuế thu vào hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng nội địa sẽ có điều kiện tăng lên.
Vì vậy cần phải mở rộng đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và ổn định mức điều tiết, nhằm ổn định nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bù đắp một phần nguồn thu thuế nhập khẩu và các khoản thu khác giảm.
Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt cũng được chịu thuế giá trị gia tăng sẽ đảm bảo tính liên hoàn trong việc áp dụng chính sách thuế từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng.
3.1. Thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng là một trong những loại thuế gián thu điều tiết một phần vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá dịch vụ. Mọi tổ chức, cá nhân thông qua việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ thực hiện nghĩa vụ thuế với ngân sách nhà nước. Do đó thuế giá trị gia tăng có tính trung lập cao, diện điều chỉnh rộng và tương lai, thuế giá trị gia tăng sẽ trở thành sắc thuế chủ yếu, chiếm tỷ trọng cao trong hệ thống chính sách thuế (chiếm 30% tổng thu ngân sách) và sẽ bù đắp được nguồn thu thuế nhập khẩu khi cắt giảm thuế theo cam kết quốc tế. Để thực hiện chức năng của sắc thuế này, đến năm 2008 sẽ hoàn thiện theo hướng giảm bớt số nhóm hàng hoá dịch vụ không chịu thuế tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh; áp dụng một mức thuế suất để đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế và đơn giản trong việc tính thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ; hoàn thiện phương pháp tính thuế, tiến tới xác định ngưỡng doanh thu chịu thuế giá trị gia tăng để thực hiện một phương pháp tính thuế khấu trừ, phù hợp với thông lệ quốc tế.
3.2. Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu thu vào một số hàng hoá, dịch vụ Nhà nước cần điều tiết thu nhập và hạn chế hướng dẫn tiêu dùng, phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần bảo đảm ổn định nguồn thu khi cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết quốc tế. Đến năm 2008 sẽ hoàn thiện theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, điều chỉnh thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cho phù hợp với mục tiêu điều tiết thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng. Tiến tới xoá bỏ miễn, giảm thuế tiêu thụ đặc biệt để đảm bảo, công bằng bình đẳng về nghĩa vụ thuế và nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước và nhập khẩu.
3.3. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và các công cụ bảo hộ khác
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu thu vào hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Hướng hoàn thiện là khuyến khích tối đa xuất khẩu; sửa đổi các quy định về thuế suất, giá tính thuế, thời hạn nộp thuế để thực hiện cam kết và thông lệ quốc tế; sửa đổi quy trình, thủ tục thu nộp thuế cho phù hợp với Luật Hải quan, góp phần tăng cường quản lý hoạt động xuất nhập khẩu theo cam kết quốc tế.
Trong giai đoạn 2006 – 2010, tiếp tục thực hiện theo CEPT/AFTA để đến 2010 có 80% dòng thuế có thuế suất 0%. Tiếp tục thực hiện các cam kết quốc tế khác đã ký kết. Thu gọn mức thuế nhập khẩu xuống khoảng 6 mức. Xoá bỏ hoàn toàn việc miễn, giảm thuế nhập khẩu.
3.4. Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu điều tiết thu nhập tới kết quả sản xuất kinh doanh. Nó phản ánh trình độ và hiệu quả của nền kinh tế và của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Hiện nay và các năm tới do năng suất, hiệu quả và mức tích lũy của nền kinh tế nước ta còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Quy mô của doanh nghiệp còn nhỏ, công nghệ còn lạc hậu. Do đó để nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp phát triển bền vững, đến năm 2008 sẽ hoàn thiện theo hướng giảm mức thuế suất, giảm diện miễn, giảm thuế; thống nhất mức thuế suất và ưu đãi thuế giữa các thành phần kinh tế để khuyến khích đầu tư và đảm bảo bình đẳng trong cạnh tranh.
3.5. Thuế thu nhập cá nhân
Thuế thu nhập cá nhân cùng với thuế thu nhập doanh nghiệp là 2 loại thuế trực thu chủ yếu trong hệ thống chính sách thuế. Là sắc thuế thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp của mọi cá nhân cho ngân sách nhà nước. Hướng lâu dài là phải nâng cao tỷ trọng thuế trực thu trong tổng thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, cũng như đối với doanh nghiệp, trình độ kinh tế, nguồn thu nhập của đại bộ phận dân cư đang còn ở mức thấp. Vì vậy, năm 2007 trình Quốc hội ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân thay thế cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, thu hẹp sự khác biệt giữa đối tượng nộp thuế là người Việt nam và người nước ngoài.
3.6. Thuế sử dụng đất
Đất đai là một tài nguyên có vị trí cực kỳ quan trọng, là cơ sở hạ tầng của sản xuất và đời sống, tư liệu sản xuất đặc biệt của sản xuất nông nghiệp. Các chính sách thuế liên quan đến đất đai phải nhằm góp phần quản lý, sử dụng đất đai hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả, đồng thời tăng tỷ trọng các khoản thu này trong tổng thu ngân sách nhà nước. Theo hướng nêu trên mọi tổ chức, cá nhân sử dụng đất, phải nộp tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất; nộp thuế sử dụng đất. Mọi hoạt động chuyển nhượng đất phải được điều tiết thu nhập vào ngân sách nhà nước.
Ban hành “Luật thuế sử dụng đất” theo hướng sẽ bao gồm:
a/ Thu thuế sử dụng đất: Mọi tổ chức cá nhân sử dụng đất đều phải nộp thuế sử dụng đất (trừ trường hợp thuê đất). Đất sử dụng vào mục đích kinh doanh phải được điều tiết cao hơn đất ở, đất xây dựng công trình; đất ở, đất xây dựng công trình thu cao hơn đất sử dụng vào mục đích nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản. Căn cứ tính thuế là: diện tích, giá tính thuế, thuế suất. Giá tính thuế được xác định theo giá các loại đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định sát giá thị trường. Trước mắt miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho hộ nông dân từ nay đến năm 2010.
b/ Thu tiền sử dụng đất khi giao quyền sử dụng đất và thu tiền thuê đất được xác định phù hợp với giá thực tế chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển nhượng quyền thuê đất trên thị trường. Mở rộng hình thức đấu giá công khai để thu tiền sử dụng đất và cho thuê đất.
Các tổ chức, cá nhân kinh doanh nhà, đất phải nộp thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.
c/ Thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, quyền thuê đất chủ yếu do 2 yếu tố mang lại:
Một là, do quan hệ cung cầu. Đất thì không thể tăng thêm nhưng nhu cầu sử dụng đất ngày một tăng cho sản xuất và đời sống.
Hai là, do Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế làm cho giá đất tăng lên vì vậy, các khoản thu nhập từ chuyển nhượng đất đai phải có biện pháp điều tiết đầy đủ.
Bỏ thuế chuyển quyền sử dụng đất. Thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất của các cơ sở sản xuất kinh doanh sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, phần thu nhập còn lại phải nộp thuế bổ sung theo mức lũy tiến từng phần. Thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân không kinh doanh nộp thuế thu nhập của cá nhân.
3.7. Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là loại thuế thu vào việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế tài nguyên để tăng cường bảo vệ môi trường, khai thác sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả. Hiện nay thuế tài nguyên được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá X ban hành dưới hình thức “Pháp lệnh thuế tài nguyên”. Dự kiến năm 2008 sẽ nâng “Pháp lệnh Thuế tài nguyên” thành “Luật thuế tài nguyên” theo hướng:
– Mở rộng diện chịu thuế tài nguyên trên nguyên tắc đối với tất cả các loại tài nguyên thiên nhiên khai thác đều chịu thuế.
– Tính thuế trên sản lượng khai thác để khuyến khích khai thác, sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả.
– Mức thuế suất được phân biệt theo loại tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên không tái tạo lại được chịu mức thuế suất cao hơn tài nguyên tái tạo được. Tài nguyên quý hiếm chịu cao hơn tài nguyên thông thường.
– Giá tính thuế là giá bán tài nguyên thương phẩm tại nơi khai thác.
– Hạn chế việc miễn giảm thuế tài nguyên.
3.8. Thuế bảo vệ môi trường
Đây là loại thuế thu vào các đối tượng gây ô nhiễm môi trường nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, nhằm chống chuyển dịch công nghệ “bẩn” vào Việt nam và tạo lập quỹ để cải tạo môi trường. Đến năm 2008 sẽ trình Quốc hội ban hành Luật thuế bảo vệ môi trường theo hướng đối tượng chịu thuế là các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường; căn cứ tính thuế được xác định phù hợp với từng loại hàng hóa, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường. Nguồn thu từ thuế bảo vệ môi trường chỉ dành để dùng cho bảo vệ môi trường, không dùng cho việc khác.
3.9. Thuế tài sản
Thuế tài sản là loại thuế điều tiết một phần thu nhập của những cá nhân có quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản là: nhà, ô tô, tàu thuyền… Đến năm 2008 sẽ trình Quốc hội ban hành Luật thuế tài sản theo hướng mở rộng đối tượng tài sản chịu thuế để bảo đảm công bằng giữa các tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu, sử dụng tài sản.
3.10. Về phí, lệ phí
Phí và lệ phí là khoản thu nhằm bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí quản lý nhà nước, hoặc phí cung cấp dịch vụ cho các tổ chức, cá nhân. Các khoản phí, lệ phí sẽ được sắp xếp lại theo hướng: tiếp tục rà soát bãi bỏ các loại phí, lệ phí không hợp lý gây cản trở và tăng chi phí đầu vào của các hoạt động kinh doanh, gây phiền hà cho sản xuất và đời sống. Các loại phí thu do cung cấp dịch vụ công sẽ chuyển sang giá dịch vụ, các loại phí mang tích chất thuế chuyển thành thuế. Thống nhất mức thu phí đối với tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện công bằng xã hội.
IV. NỘI DUNG ĐỔI MỚI QUẢN LÝ THUẾ
Hướng chiến lược là hiện đại hoá toàn diện công tác quản lý thuế cả về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ, áp dụng rộng rãi công nghệ tin học để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, kiểm soát cho được tất cả các đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, hạn chế thất thu thuế ở mức thấp nhất, bảo đảm thu đúng, thu đủ kịp thời các khoản thu vào ngân sách nhà nước. Nâng cao trình độ quản lý thuế của Việt Nam ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực.
Nội dung chủ yếu của công tác quản lý thuế là:
a) Hiện đại hoá toàn diện công tác quản lý thuế cả về phương pháp quản lý, thủ tục hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, kiểm soát cho được tất cả các đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, hạn chế thất thu thuế ở mức thấp nhất, bảo đảm thu đúng, thu đủ và kịp thời các khoản thu vào ngân sách nhà nước.
b) Đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác quản lý thu thuế nhằm nâng cao quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy quản lý thuế. Năm 2006 ban hành Luật Quản lý thuế nhằm quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan; bổ sung quyền cưỡng chế thuế, điều tra các vụ vi phạm về thuế cho cơ quan thuế. Từ năm 2007 áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp thuế trên phạm vi toàn quốc.
c) Thực hiện tuyên truyền, giáo dục về thuế bằng nhiều hình thức phong phú để nâng cao ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của đối tượng nộp thuế; khuyến khích và phát triển mạnh mẽ các dịch vụ tư vấn, kế toán thuế; mở rộng diện nộp thuế theo phương pháp kê khai. Từ năm 2005, áp dụng các hình thức dịch vụ hỗ trợ về thuế cho mọi đối tượng nộp thuế trên toàn quốc.
d) Áp dụng công nghệ tin học hiện đại vào công tác quản lý thuế: giai đoạn 2005 – 2008 sẽ kết nối mạng giữa các cơ quan: Thuế, Hải quan, Kho bạc, doanh nghiệp và các cơ quan liên quan; xây dựng chương trình ứng dụng hỗ trợ cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho đối tượng nộp thuế; xây dựng chương trình ứng dụng quản lý thuế theo cơ chế đối tượng nộp thuế tự khai, tự nộp thuế; xây dựng chương trình ứng dụng quản lý thuế thu nhập cá nhân.
Giai đoạn 2009 – 2010 củng cố các chương trình đã được thiết lập, mở rộng việc kết nối thông tin với mọi tổ chức, cá nhân có liên quan phục vụ cho công tác quản lý thuế.
đ) Mở rộng ủy nhiệm thu đối với một số loại thu gắn với cơ quan, tổ chức chi trả nguồn thu nhập để đảm bảo chống thất thu.
e) Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực điều hành, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của cán bộ thuế theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp.
g) Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế.
V – GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
a) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp trong tất cả các mặt của lĩnh vực thuế và cải cách hệ thống thuế.
b) Các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục quốc gia có trách nhiệm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về các chính sách thuế để mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ và tự giác chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật thuế. Biểu dương các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, đồng thời phê phán mạnh mẽ các hiện tượng vi phạm pháp luật thuế.
c) Hoàn thiện, cải cách đồng bộ các cơ chế, chính sách quản lý về đất đai, thanh toán không dùng tiền mặt, đăng ký kinh doanh, xuất, nhập khẩu, xuất, nhập cảnh, kế toán, giá… để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế và cải cách hệ thống thuế.
d) Tăng cường trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp với cơ quan thuế như: cung cấp thông tin, điều tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và các biện pháp hành chính khác để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật thuế.
đ) Khuyến khích, đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, cung cấp dịch vụ về thuế, kế toán, kiểm toán, đại lý thuế nhằm giúp cho tổ chức, cá nhân nộp thuế hiểu rõ các quy định của pháp luật về thuế, làm tốt công tác kế toán, thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mình.
e) Kiện toàn bộ máy ngành thuế theo hướng quản lý theo chức năng, tăng cường trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan thuế các cấp.
g) Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ thuế theo hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế tiên tiến, hiện đại.
h) Các chính sách về thuế được quy định và chỉ có giá trị pháp lý trong các văn bản pháp luật về thuế.
VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010.
Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế
Để bảo đảm đưa Luật quản lý thuế vào cuộc sống và đạt được các mục tiêu, yêu cầu, Chính phủ, Thủ tuớng Chính phủ đã ban hành các Nghị định, Quyết định hướng dẫn thi hành Luật, bao gồm:
1. Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật quản lý thuế.
2. Quyết định số 76/2007/QĐ-TTg ngày 28/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục thuế trực thuộc Bộ Tài chính.
3. Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 8/6/2007 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế trong lĩnh vực hải quan.
4. Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 8/6/2007 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế (áp dụng đối với quản lý thuế nội địa).
Bộ Tài chính đã ban hành các Thông tư, Quyết định hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế và các Nghị định về quản lý thuế, bao gồm:
1.Thông tư số 59/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, quản lý thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
2.Thông tư số 60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quản lý thuế và hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ – CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật quản lý thuế.
3. Thông tư số 61/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
4.Thông tư số 62/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 8/6/2007 của Chính phủ quy định việc xử phạt hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế trong lĩnh vực hải quan.
5.Quyết định số 48/2007/QĐ-BTC ngày 15/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các ban và văn phòng của Tổng cục Thuế.
6.Quyết định số 2090/2007/QĐ-BTC ngày 15/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục ứng dụng công nghệ thông tin trực thuộc Tổng cục Thuế.
7.Quyết định số 2091/2007/QĐ-BTC ngày 15/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của tạp chí thuế trực thuộc Tổng cục Thuế.
8.Quyết định số 2092/2007/QĐ-BTC ngày 15/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của trường nghiệp vụ thuế trực thuộc Tổng cục Thuế.
9.Quyết định số 2093/2007/QĐ-BTC ngày 15/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của đại diện Tổng cục Thuế tại Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Thông tư số 85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế về việc đăng ký thuế.
Ngoài ra sẽ tiếp tục ban hành các Thông tư, Quyết định sau:
- Thông tư hướng dẫn cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
2.Thông tư hướng dẫn về việc tổ chức thi, cấp, thu hồi chứng chỉ hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế, việc đăng ký hành nghề và quản lý hoạt động hành nghề dịch vụ làm thủ tục về thuế.
- Thông tư hướng dẫn thủ tục trình tự giải quyết bồi thường thiệt hại do cơ quan thuế, cơ quan hải quan, cán bộ, công chức thuế, cán bộ công chức hải quan có hành vi vi phạm pháp luật gây ra.
- Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành “Quy chế hoạt động của Hội đồng tư vấn thuế xã phường”.
Mục lục
Trang |
|
Phần thứ nhất: Cải cách thuế giai đoạn 1990 đến nay |
3 |
I. Các kết quả đạt được |
3 |
II. Một số hạn chế |
9 |
III. Các yêu cầu chủ yếu về quản lý thuế trong giai đoạn mới |
|
Phần thứ hai: Luật quản lý thuế |
17 |
A. Giới thiệu chung về Luật quản lý thuế |
17 |
I. Sự cần thiết ban hành Luật quản lý thuế |
17 |
II. Quan điểm chỉ đạo việc xây dựng Luật quản lý thuế |
18 |
III. Kết cấu của Luật quản lý thuế |
19 |
B. Nội dung cơ bản của Luật quản lý thuế |
22 |
1. Phạm vi điều chỉnh |
22 |
2. Đối tượng điều chỉnh |
22 |
3. Quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế |
22 |
4. Quyền và nghĩa vụ của cơ quan, công chức quản lý thuế |
23 |
5. Tổ chức kinh doanh làm thủ tục về thuế |
25 |
6. Trách nhiệm pháp lý của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong công tác quản lý thuế |
26 |
7. Đăng ký thuế |
27 |
8. Khai thuế, tính thuế |
28 |
9. Ấn định thuế |
32 |
10. Nộp thuế |
34 |
11. Trách nhiệm hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế |
37 |
12. Thủ tục hoàn thuế |
39 |
13. Thủ tục miễn, giảm thuế |
41 |
14. Thủ tục xóa nợ tiền thuế, tiền phạt |
42 |
15. Thông tin về người nộp thuế |
43 |
16. Kiểm tra thuế, thanh tra thuế |
44 |
17. Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế |
47 |
18. Xử lý vi phạm pháp luật thuế |
48 |
Phần tư liệu tham khảo |
53 |
– Pháp luật về quản lý thuế của một số nước |
53 |
– Nội dung cơ bản của Chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 |
78 |
(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)