1. Mô thức quản lý truyền thống Giám đốc áp dụng từ trước

Nói về quản lý, quản lý là việc quản trị của một tổ chức, cho dù đó là một doanh nghiệp, một tổ chức phi lợi nhuận hoặc cơ quan chính phủ. Quản lý bao gồm các hoạt động thiết lập chiến lược của một tổ chức và điều phối các nỗ lực của nhân viên để hoàn thành các mục tiêu của mình thông qua việc áp dụng các nguồn lực sẵn có, như tài chính, tự nhiên, công nghệ và nhân lực. Thuật ngữ “quản lý” cũng có thể chỉ những người quản lý một tổ chức.

Theo Frederick W.Taylor (1856 – 1915) là một trong những đại biểu xuất sắc của trường phái quản lý theo khoa học. Để trả lời câu hỏi quản lý là gì ông cho rằng: Quản ly là biết được chính xác điêu bạn muốn người khác làm và sau đó thấy được rằng họ đa hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. Ông đã đưa ra các tư tưởng chính của thuyết quản lý theo khoa học là: Tiêu chuẩn hóa công việc, chuyên môn hóa lao động, cải tạo các hệ quản lý.

Theo Henry Fayol (1841-1925) là người đưa ra thuyết quản lý hành chính ở Pháp, định nghĩa: “Quản lý hành chinh là dự đoán và lập kế hoạch, tô chức điều khiển, phối hợp và kiểm tra”. Ông là người đầu tiên nêu một cách rõ ràng các yếu tố của quá trình quản lý, cách thức phân tích một quá trình quản lý phức tạp thành các chức năng tương đối độc lập và mang tính phổ biến gồm các chức năng: Dự đoán – Lập kế hoạch; Tổ chức; Điều khiển; Phối hợp; Kiểm tra.

Một số giám đốc xuất chúng không từ chối các nguyên tắc và phương pháp của lý luận quản lý kinh điển như nghiên cứu động tác, thời gian sản xuất, khống chế dự toán và tài vụ…

Tuy nhiên, họ khác với những giám đốc có thành tích bình thường, coi phương pháp quản lý truyền thống là biện pháp sử dụng quyền lực đê thực thi kiểm soát, chỉ biết phân công, tổ chức, hoạch định mục tiêu và quy trình từ trên xuống dưới, sau đó dùng kích thích vật chất và mệnh lệnh hành chính để gây sức ép.

Những giám đốc giỏi cho rằng, quản lý kiểu quyền lực, mệnh lệnh sẽ gây sự phản đối trong công nhân, không thể mang lại hiệu quả lâu dài.

Họ cố gắng làm cho công nhân xây dựng được thái độ đúng đắn và tích cực, rồi đưa các phương pháp quản lý truyền thống kinh điển vào đó, nhờ vậy mà phát huy đầy đủ tác dụng của phương pháp, kỹ thuật và công cụ quản lý.

Các giám đốc kinh doanh có hiệu quả phần lớn nghiêng về nguyên tắc quản lý có sự tham gia của công nhân viên, đồng thời vận dụng nó vào rất nhiều mặt như xác định mục tiêu, dự toán, khống chế giá thành, thiết kế cơ cấu tổ chức…

2. Mô thức quản lý mới được áp dụng của một số Giám đốc

Đặc trưng trung tâm nhất của mô thức quản lý mới mà họ sáng tạo là: biến tổ chức thành hệ thống xã hội, phối hợp nhịp nhàng, kích thích và hợp tác cao.

Ở đây, tổ chức thường được hiểu như là tập hợp của nhiều người cùng làm việc vì những mục đích chung trong hình thái cơ cấu ổn định; hay tổ chức là các hoạt động cần thiết để xác định cơ cấu, guồng máy của hệ thống, xác định những công việc phù hợp với từng nhóm, từng bộ phận và giao phó các bộ phận cho các nhà quản trị hay người chỉ huy với chức năng nhiệm vụ và quyền hạn nhất định để thực hiện nhiệm vụ được giao. Việc tổ chức này gọi là tổ chức bộ máy. Hoạt động tổ chức còn là việc bố trí sắp xếp việc thực hiện các công việc trong một cơ cấu tổ chức như: Doanh nghiệp sản xuất, Dự án gọi là tổ chức thực hiện dự án, trường hợp đặc thù là trong dự án xây dựng gọi là tổ chức xây dựng và tổ chức thi công.

Khi đó các Giám đốc kinh doanh sẽ nghiêng về nguyên tắc quản lý có sự tham gia của công nhân viên, đồng thời vận dụng nó vào rất nhiều mặt như xác định mục tiêu, dự toán, khống chế giá thành, thiết kế cơ cấu tổ chức… này. Đây được gọi là nguyên tắc quản lý tổng thể kiểu mới của Linkert.

Để làm được điều này, triết lý và tâm niệm quan trọng nhất của họ là: Người lãnh đạo phải coi cấp dưới và công nhân viên chức là con người có nhân cách độc lập chứ không chỉ là lực lượng lao động để hoàn thành nhiệm vụ, không phải là bánh răng khế và cái đinh ốc của cỗ máy.

– Lãnh đạo được hiểu là một quá trình ảnh hưởng mang tính xã hội trong đó lãnh đạo tìm kiếm sự tham gia tự nguyện của cấp dưới nhằm đạt mục tiêu của tổ chức. Lãnh đạo chính là quá trình sử dụng và phối hợp hoạt động của các cá nhân trong tổ chức bằng cách gây ảnh hưởng và dẫn đắt hành vi của cá nhân hay nhóm người nhằm hướng tới mục tiêu của tổ chức.

Người lãnh đạo ở đây là một người sẽ đạt những tiêu chí nhất định để trở thành một nhaflanhx đạo thực thụ.

3. Mô thứ quản lý theo Linkert

Rensis Linkert (1903 -1981) mẹ là là Cornelia Adrianne Likert và cha Likert George Herbert, ông sinh ra tại Cheyenne, Wyoming, cha ông là 1 kỹ sư làm việc tại hãng đường sắt Union Pacific vì thế ông được cha hướng theo con đường kỹ sư. Khi làm thực tập tại Union Pacific, ông ấn tượng sâu sắc với đợt đình công năm 1922 của công nhân do thiếu tiếp xúc giữa nhà quản lý và công nhân, thúc đẩy ông nghiên cứu sâu hơn về quản lý và các hành vi trong quản lý.

Linkert tốt nghiệp đại học Michigan năm 1926 và nhận bằng tiến sĩ tâm lý học tại đại học Columbia năm 1932. Rensis là sáng lập viên kiêm giám đốc của Viện nghiên cứu xã hội thuộc địa học Michigan từ năm 1946 -1970, sau đó ông về hưu và mở ra Rensis Likert Associates để tư vấn quản lý cho các công ty tập đoàn Ông có 3 tác phẩm chính : Mô thức quản lý mới – 1961, Quản lý tổ chức nhân quần và giá trị của nó – 1967, Con đường mới về giải quyết xung đột trong quản lý – đồng tác giả năm 1967. Linkert cho rằng quản lý, quan trọng nhất là sự lãnh đạo đối với con người.

Ông Rensis Linkert là nhà khoa học hành vi hiện đại của Mỹ. Sau khi đỗ cử nhân văn học G trường Đại học Columbia, ông đến trường Đại học Calife ưia làm nghiên cứu sinh và đỗ tiến sĩ lý học. Trong đại chiến thế giới thứ hai, ông làm việc trong Chính phủ Liên bang Mỹ lần lượt làm Trướng phòng Khảo sát công trình – Bộ Nông nghiệp và Trưởng phòng Tác phong kỷ luật thuộc Cục Điều tra oanh tạc chiến lược của Mỹ.

Đối với ông Linkert, ông cho rằng, để thực hiện phương thức quản lý có sự tham gia của công nhân viên, nhà lãnh đạo doanh nghiệp phải hiểu rõ những khái niệm cơ bản và biết vận dụng nguyên lý về việc tranh thủ sự ủng hộ của tập thê.

Ông Linkert cho rằng, trách nhiệm của người lãnh đạo là ở chỗ xây dựng sự hiệp tác có hiệu quả của cả tổ chức.

Do đó, người lãnh đạo phải coi trọng tác động qua lại giữa các thành viên trong tập thể tác nghiệp, làm cho nó có ảnh hưởng tốt đối với sự hiệp tác của cả tổ chức.

Đối với một tập thể tác nghiệp, sự tác động lẫn nhau này trước tiên là phải đảm bảo cho mỗi thành viên có thể cảm nhận được sự tôn trọng và ủng hộ trong quan hệ giữa người với người của tổ chức một cách chân thực, khiến họ cảm nhận được sự tôn nghiêm của con người thông qua phương thức lãnh đạo của tổ chức.

Khi mỗi thành viên đã đạt được sự tôn trọng này, họ sẽ hình thành lòng tự tin và cảm giác của tâm lý thành công như Argyris đã từng nói, từ đó kích thích họ nỗ lực thực hiện mục tiêu của tổ chức.

Cán bộ quân lý phải ủng hộ, thân thiện đối với nhân viên cấp dưới. Phải quan tâm đến nhu cầu của họ, tín nhiệm khả năng, sự trưng thực, động cơ của nhân viên cấp dưới, không được có thái độ hoài nghi. Xuất phát từ sự tín nhiệm này mà quan tâm đến công việc của nhân viên cấp dưới, đồng thời gửi gắm hy vọng lớn ở họ, thường xuyên hướng dẫn công việc cho nhân viên cấp dưới. Đối với những vấn đề liên quan đến công việc và lợi ích của nhân viên cấp dưới, cán bộ quản lý phải ủng hộ, bao vệ yêu cấu của họ, thúc đẩy sự hiểu biết, thông cảm lẫn nhau giữa các thành viên, phát huy tính sáng tạo của họ. Do cán bộ quản lý tín nhiệm nhân viên cấp dưới nên nhân viên cấp dưới tín nhiệm họ, từ đó khiến cho trên dưới hiệp tác chặt chẽ thân mật, cùng nỗ lực thực hiện mục tiêu của tổ chức.

Như vậy, sự tác động lẫn nhau mà Linkert đã nói không những chỉ là giữa các thành viên trong tổ chức mà còn là giữa công nhân viên với cán bộ quán lý, tức là bao gồm cả sự tác động lẫn nhau theo chiều ngang và chiều dọc trong tổ chức.

4. Lý luận về sự ủng hộ của Linkert

Đối với “Lý luận về sự ủng hộ” mà Linkert đưa ra chúng ta có thể miêu tả đơn giản như sau:

Công tác lãnh đạo cũng như các loại hình khác về công tác tổ chức phải đảm bảo ở mức cao nhất cho mỗi thành viên trong tổ chức đều có thê xác định được quan hệ giữa tổ chức và các thành viên là quan hệ ủng hộ lẫn nhau, thông qua sự từng trải và thử nghiệm của bản thân, xét theo góc nhìn được hình thành bởi bối cảnh, chuẩn mực giá trị, niềm hy vọng của mình và mỗi người trong tổ chức đều được coi trọng, đều có giá trị của mình.

Ông Linkert cho rằng, nếu trong tổ chức hình thành “quan hệ ủng hộ” này thì thái độ của cống nhân sẽ rất tích cực, các biện pháp kích thích sẽ được phát huy tác dụng một cách đầy đủ, trong tố chức sẽ tràn trề tinh thần hiệp tác, hiệu quả công việc đương nhiên sẽ được nâng cao.

Lý luận về sự ủng hộ yêu cầu các thành viên của tổ chức phải ý thức được rằng, sứ mệnh và mục tiêu mà tổ chức đảm nhiệm là quan trọng và công việc của mỗi người đều có ý nghĩa lớn. không thể thiếu được đối với tổ chức. Chỉ có như vây mới có thể làm cho công nhân viên cảm nhận được giá trị tồn tại của mình, đồng thời kích thích họ tham gia quản lý.

5. Khái niệm ủng hộ

Đối với khái niệm “ủng hộ” ở đây có nghĩa là công nhân viên đặt mình vào môi trường của tổ chức, thông qua sự trao đổi công việc, tự cảm nhận và thể nghiệm được sự úng hộ, trọng thị của lãnh đạo và các bộ phận trong lổ chức đối với mình, từ đó nhận thức dược giá trị của mình. Môi trường đó chính là “sự ủng hộ”. Người lãnh đạo và đồng sự như vậy cũng là sự “ủng hộ”.

Do lý luận này vốn có đặc điểm của nó nên khi ứng dụng, người ta phải chú ý đến sự cảm nhận chân thực và thể nghiệm chủ quan của công nhân, bới vì điều mấu chốt ở đây là công nhân có ấn tượng gì, rút ra kết luận gì từ việc so sánh giữa mong muốn của họ với thực tế mà họ trải qua. Cho nên, người lãnh đạo phải biết công nhân viên muốn gì.

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật LVN Group (Sưu tầm và Biên soạn)