Khách hàng: Chào Luật sư. Luật sư cho em hỏi mối quan hệ giữa quản trị và quản lý, Quản trị và Quản trị xã hội với ạ.
Em xin cảm ơn!
Trả lời:
1. Mối quan hệ của quản trị và quản lý
Theo nghĩa chung nhất, quản trị có nghĩa là hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm soát một nhóm người, một tổ chức hay một quốc gia nhằm đáp ứng nhu cầu của họ. Quản trị thường được định nghĩa là việc thực thi quyền lực hay quyền hành bởi người lãnh đạo nhằm bảo đảm phúc lợi của các thành viên trong tổ chức hay cộng đồng. Nội hàm thuật ngữ quản lý có nhiều nội dung tương tự quản trị, nhưng có những khác biệt cần được làm rõ để có thể sử dụng một cách phù hợp.
Quản trị trong công ty cổ phần. Có thể nghiên cứu trường hợp quản trị, cụ thể là hội đồng quản trị trong công ty cổ phần để hiểu rõ hơn về mối quan hệ của quản trị với quản lý trong phạm vi tổ chức doanh nghiệp. Trong công ty cổ phần người quản lý bao gồm cả chủ tịch hội đồng quản trị và các thành viên hội đồng quản trị, người chủ sở hữu và những người có chức danh quản lý trong công ty. Điều này có nghĩa là “quản lý” bao hàm cả “quản trị”. Trong mô hình tổ chức quản lý của công ty cổ phần có “hội đồng quản trị” và chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty. Đại hội đồng cổ đông có quyền và nghĩa vụ bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị; xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị. Trong công ty cổ phần, hội đồng quản trị có các quyền và nghĩa vụ sau: quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty; quyết định mua bán các loại cổ phần, trái phiếu; quyết định đầu tư, giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị; bổ nhiệm, miễn nhiệm, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý quan trọng theo điều lệ; giám sát, chỉ đạo Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hằng ngày; quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty, quyết định thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp khác; kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể, yêu cầu phá sản công ty. Với các quyền và nghĩa vụ như vậy, có thể thấy rõ quản trị bao quát, quy định, chỉ đạo, giám sát quản lý.
Việc xuất hiện “hội đồng quản trị” trong một tổ chức như công ty cổ phần chứng tỏ “quản trị” liên quan đến vấn đề quyền sở hữu và lợi ích của các bên tham gia tổ chức; cụ thể ở đây là các cổ đông gồm ít nhất ba cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần. Trọng tâm của quản lý là thực hiện các mục tiêu trong khuôn khổ đã được quản trị xác định. Trọng tâm của quản trị là bảo đảm cân bằng tăng lợi ích của các bên tham gia.
Một nghiên cứu về đo lường, đánh giá năng lực lãnh đạo, quản lý khu vực hành chính công xác định 6 nhóm năng lực thành phần gồm: năng lực đạo đức công vụ, năng lực am hiểu địa phương, năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, điều hành, năng lực quản trị nhân sự và năng lực quản trị bản thân. Cấu trúc này cho thấy rõ quản lý bao gồm cả quản trị cụ thể là quản trị nhân sự và quản trị bản thân. Như vậy, quản trị bao gồm cả quản trị và quản lý.
2. Quản lý
Henri Fayol (1841 – 1925) là một trong những tác giả tiên phong nghiên cứu về quản lý và đã đưa ra những quan điểm mới đối với không ít nhà nghiên cứu hiện đại. Ông cho rằng quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra, quản lý chỉ là biện pháp và công cụ của tổ chức xã hội, chức năng quản lý chỉ tác động đến con người. Vấn đề là trong các chức năng của quản lý có chức năng “chỉ huy” mà không ít người hiểu nhầm là “lãnh đạo” và do vậy mới cho rằng lãnh đạo là một bộ phận của quản lý. Nhưng theo Fayol, quản lý chỉ là một trong sáu chức năng hay sáu công việc của cả một tổ chức, một doanh nghiệp do lãnh đạo bảo đảm thực hiện. Năm công việc kia là sản xuất, trao đổi, tài chính, bảo vệ và kế toán.
Một vấn đề khác là tên gọi “người lãnh đạo”, “người quản lý” có lẽ đã làm cho mọi người nhầm tưởng rằng trong một tổ chức có những người chuyên làm lãnh đạo, quản lý đến mức những người còn lại không phải làm, không được làm công việc này. Cách hiểu giản đơn về quản lý kiểu này dẫn đến một thực tiễn giáo dục – đào tạo lệch về thực tiễn được hiểu thô sơ với biểu hiện là toàn bộ nội dung chương trình đào tạo đều là những kinh nghiệm, kỹ năng, biện pháp nhằm biến “người lãnh đạo”, “người quản lý” thành tác nhân, diễn viên người phải làm thế này, phải ứng xử thế kia đối với “người bị lãnh đạo”, “người bị quản lý”. Điều này không sai, nhưng đang biến khoa học về quản lý thành tập hợp các kinh nghiệm kiểu “cầm tay chỉ việc”, về bộ môn quản lý, lãnh đạo chỉ dành cho “cán bộ lãnh đạo, quản lý” mà quên mất một mặt kia của vấn đề là cần phải đào tạo một cách khoa học về lãnh đạo, quản lý cho cả đội ngũ nhân viên. Có thể cần nhấn mạnh ý tưởng mới này bởi vì cho đến nay lãnh đạo, quản lý chủ yếu được coi là công việc của một số ít người: khoảng 1% những người đang làm công việc này được gọi là người lãnh đạo, quản lý.
3. Quản trị và quản trị xã hội
Trước đó, quản trị thường gắn với chính phủ (chính quyền), đến mức được sử dụng thay thế cho nhau và đều chủ yếu nói về quyền lực nhà nước, quản trị nhà nước. Nhưng từ những năm 1980 đến nay nội hàm khái niệm quản trị được mở rộng bao gồm cả quản trị nhà nước với các chủ thể là các tổ chức và thể chế của nhà nước, quản trị xã hội dân sự với các tổ chức phi chính phủ và hộ gia đình, quản trị thị trường, khu vực tư nhân với các tổ chức doanh nghiệp. Xem kỹ thấy rằng sự phân biệt ba loại quản trị này chỉ mang tính chất tương đối bởi vì quản trị nhà nước bao quát tất cả các khu vực công và khu vực tư, các lĩnh vực của đời sống con người, tổ chức, cộng đồng, gia đình và các cá nhân. Căn cứ cấp độ, phạm vi hoạt động có thể phân biệt quản trị địa phương, quản trị quốc gia, quản trị khu vực và quản trị toàn cầu. Căn cứ lĩnh vực đời sống xã hội có thể phân biệt quản trị kinh tế, quản trị giáo dục, quản trị khoa học, quản trị xã hội và các loại quản trị khác.
Xã hội biến đổi nên nếu như trước kia, quản trị chủ yếu là quá trình tập trung và thực thi quyền lực, quyền hành và quyền uy để chỉ huy, thống trị và kiểm soát thì ngày nay, quản trị bao gồm cả quá trình phi tập trung, quản lý quan hệ và tạo sự đồng thuận bởi vì bất kỳ một hoạt động chỉ huy và kiểm soát nào cũng bao gồm nhiều tổ chức, nhóm và cá nhân có mối quan hệ phân công, hiệp tác với tính cách vừa là chủ thể và khách thể, đối tượng và đối tác, đối thủ và đồng minh. Đặc biệt là biến đổi quản trị từ “cai trị, thống trị, chỉ huy, ra lệnh, kiểm soát” sang “điều tiết, phục vụ, hỗ trợ và kiến tạo, phát triển”. Sự biến đổi quản trị xã hội đang tuân theo xu hướng biến đổi từ quản trị chiếm đoạt sang quản trị dung hợp, bao trùm thu hút tất cả mọi người tham gia vào quá trình kiến tạo, phát triển. Có thể thấy ở Việt Nam quản trị ở tất cả các cấp độ từ Trung ương đến địa phương đều hướng đến phát triển bền vững, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
4. Quản trị xã hội từ góc độ lý thuyết hệ thống bốn chức năng
Talcott Parsons có đóng góp lớn trong nghiên cứu và phát triển lý thuyết hệ thống tổng quát trong xã hội học theo hướng lấy chức năng để giải thích cấu trúc của hệ thống xã hội. Theo Parsons, bất kỳ một hệ thống xã hội nào cũng phải thực hiện ít nhất bốn yêu cầu chức năng để có thể sinh tồn, vận động và phát triển trong môi trường luôn biến đổi. Đó là chức năng thích ứng, hướng đích, đoàn kết và duy trì khuôn mẫu. Do vậy, hệ thống xã hội bị phân hóa thành bốn tiểu hệ thống mà mỗi hệ thống chuyên môn hóa vào thực hiện một chức năng. Các tiểu hệ thống này tương đối độc lập nhưng luôn tương tác với nhau tạo thành một cấu trúc tương đối ổn định, bền vững. Mỗi tiểu hệ thống có thể tiếp tục phân hóa thành bốn bộ phận tương ứng với bốn chức năng. Nguyên lý phân hóa hệ thống này có thể tiếp tục diễn ra tùy theo sự yêu cầu chức năng mà môi trường đòi hỏi.
Về chức năng của quản trị xã hội
Quản trị xã hội có chức năng hướng đích cho cả hệ thống. Chức năng hướng đích này có thể được thao tác hóa, phân hóa thành những chức năng cụ thể là: thiết kế và tổ chức các hoạt động đầu vào, hoạt động sản xuất và hoạt động đầu ra của cả hệ thống; xác định mục tiêu chung của cả hệ thống bảo đảm cân bằng lợi ích các bên tham gia; xác định hệ giá trị, chuẩn mực để bảo đảm sự đồng bộ, an toàn, trật tự; xây dựng và phát triển văn hóa của hệ thống xã hội. Quản trị xã hội thực hiện cả bốn chức năng là thích ứng, hướng đích, đoàn kết và duy trì khuôn mẫu cho cả hệ thống nhằm đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong mối quan hệ với môi trường xung quanh.
5. Quản trị xã hội từ góc độ lý thuyết phân hóa hệ thống
Khác với các cách tiếp cận lý thuyết hệ thống nặng về các nguyên lý tập trung vào hệ thống với các thành phần, cấu trúc của nó, Niklas Luhmman đưa ra lý thuyết phân hóa hệ thống nhấn mạnh mối quan hệ giữa hệ thống và môi trường. Theo lý thuyết phân hóa hệ thống của Luhmann, hành động có đối tượng và khách thể là giới tự nhiên chưa trực tiếp tạo ra hệ thống xã hội. Ngay cả hành động xã hội với nghĩa là hướng đến người khác, bị ảnh hưởng bởi người khác cũng chưa trực tiếp tạo ra hệ thống xã hội. Theo Luhmann, giao tiếp mới là loại thao tác duy nhất, hành động duy nhất có khả năng tạo ra hệ thống xã hội với tính cách là sự khác biệt của hệ thống với môi trường.
Cách tiếp cận lý thuyết phân hóa hệ thống của Luhmann đòi hỏi quản trị xã hội phải thiết lập được hệ thống truyền thông “công khai, minh bạch, có trách nhiệm giải trình” giữa các thành tố bên trong hệ thống và của cả hệ thống với các hệ thống khác trong môi trường xung quanh. Ví dụ, quản trị xã hội phải dựa vào hệ thống truyền thông có hiệu quả trong nội bộ cơ quan, đơn vị; đồng thời phải dựa vào hệ thống giao tiếp có hiệu quả với các bên liên quan ở bên ngoài hệ thống bao gồm các tầng lớp nhân dân, các cá nhân, các tổ chức với các vị thế và vai trò xã hội khác nhau. Nói một cách dễ hiểu, quản trị xã hội đòi hỏi phải thường xuyên, liên tục giao tiếp với nhân dân, gần dân, lắng nghe dân, tham vấn dân, truyền thông đến mọi người dân để cùng “biết, bàn, làm, kiểm tra” để tạo ra sự khác biệt của hệ thống xã hội với môi trường.
Quản lý xã hội và quản trị xã hội có mối quan hệ đặc biệt đến mức trong một số trường hợp này có thể quy thành một và trong một số trường hợp khác có thể tách biệt thành hai tiểu hệ thống của xã hội. Có thể áp dụng cách tiếp cận lý thuyết hệ thống với các khái niệm và nguyên lý hệ thống để làm rõ chức năng của quản trị xã hội, quản lý xã hội hiện nay.
Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật LVN Group (Sưu tầm và Biên soạn)