1. Quan điểm về tự do trong thời kỳ hiện đại

Trên thế giới hiện nay, không phải mọi người đều đã được hưởng quyền tự do; ở nhiều nơi nhà cầm quyền tuy tuyên bố thừa nhận và bảo đảm quyền tự do cho mọi người, nhưng không bảo đảm được hoặc không muốn bảo đảm như tuyên bố; cuộc đấu tranh vì tự do ở nhiều nơi trên thế giới vẫn đang diễn ra gay gắt. Nhân loại đã suy tư về khái niệm tự do từ hàng ngàn năm nay. Khi xã hội càng mất tự do thì người ta càng suy tư nhiều về tự do. Tình trạng mất tự do vẫn đang diễn ra trầm trọng. Vì thế, khái niệm tự do đang được sử dụng và bàn luận rộng rãi trong sách báo hàng ngày không chỉ từ các nhà chính trị, nhà khoa học, mà còn từ những người bình thường.

Tuy nhiên, khi sử dụng và bàn luận về tự do, không phải ai cũng có quan niệm đúng đắn. Trong quan niệm của hầu hết mọi người, tự do là nhu cầu tinh thần quan trọng và cơ bản; là một giá trị; thậm chí là giá trị cao quý nhất; là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Một số người trong thực tế có thể khước từ tự do (“chạy trốn tự do”, không muốn có tự do), nhưng điều đó không có nghĩa rằng đối với họ tự do không phải là giá trị; bởi vì tình trạng tự do mà họ khước từ là thứ tự do còn tồi tệ hơn tình trạng nô lệ mà họ đang chịu đựng.

Ai cũng muốn có tự do, vì tự do là giá trị. Nhưng tự do có tính tương đối. Trong quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người không có tự do tuyệt đối vì con người không thể nhận thức hết được hoàn toàn tính tất yếu của tự nhiên. Trong quan hệ giữa con người với con người, con người cũng không có tự do tuyệt đối. Sự tự do trong xã hội có nhà nước (kể cả trong xã hội có nhà nước dân chủ nhất) hạn chế hơn so với sự tự do trong xã hội không có nhà nước. Trong xã hội dù có nhà nước hay không có nhà nước, dù có nhà nước dân chủ hay không có nhà nước dân chủ, thì mỗi người vẫn buộc phải hy sinh một phần tự do của mình. Tự do mà con người đã đạt được và sẽ đạt được đều là tương đối. Có loại tự do mà mọi người cần phải được hưởng ngay; nhưng cũng có loại tự do mà mọi người chưa thể được hưởng ngay. Có quan niệm cho rằng, nhu cầu tự do của mọi người cần phải được nhà nước và xã hội đáp ứng một cách đầy đủ và vô điều kiện. Quan niệm này là sai lầm vì không thừa nhận tính tương đối của tự do. Nếu không thừa nhận tính tương đối của tự do, thì chúng ta sẽ là người không thực tế.

2. Quyền tự do trong Chủ Nghĩa Xã Hội

Chủ Nghĩa Xã Hội (CNXH) phải tự do hơn CNTB. Khi nào đạt được mức độ tự do cao hơn tự do của xã hội tư bản phát triển thì khi ấy mới có thể có CNXH hiện thực. Việt Nam ta tuy đã định hướng tiến lên CNXH nhưng vẫn còn đang chịu ảnh hưởng nặng nề tư tưởng phong kiến trong vấn đề tự do. Phải ra sức khắc phục hạn chế này mới đúng là theo định hướng XHCN. Còn làm ngược lại, hạn chế tự do, thì đó không phải là con đường tiến lên CNXH, mà ngược lại, đó là con đường rời bỏ mục tiêu lý tưởng về CNXH. Đã có những quan niệm rất sai lầm và lạc hậu khi cho rằng tự do là kiểu tư bản phương Tây, còn CNXH thì hiểu như “trại lính”. Nếu CNXH mà vậy thì chẳng ai yêu thích và họ sẽ từ bỏ nó. Cuộc đấu tranh đòi quyền tự do không khi nào lạc hậu, không bao giờ là không cần thiết, luôn là vấn đề của thời đại, cũng là vấn đề thời sự, đáng quan tâm hàng đầu, vì nó hợp quy luật, hợp lòng người, hợp tâm lý, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Với lẽ ấy, tự do – bản thân nó – đã là tất yếu. Tự do là tất yếu.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự do là mục đích tiếp theo, mục đích chính của độc lập. Độc lập là để có tự do. Độc lập, bản thân nó là sự tự do cho một dân tộc; đồng thời là để và phải đem lại tự do cho nhân dân, cho từng người. Hồ Chí Minh đã từng nói, nếu nước độc lập mà dân không được tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chưa có ý nghĩa gì. Khi lập nước, Người đã đưa các thành tố “dân chủ” và “tự do” vào tên gọi của nước Việt Nam mới.

3. Tự do ngôn luận và tự do tư tưởng

Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, với tự do tư tưởng, và tự do ngôn luận kèm theo, con người đã có những bước tiến nhảy vọt, nhờ trí tuệ của cộng đồng bổ sung cho nhau, tiếp cận được chân lý khách quan, chọn được giải pháp tối ưu cho xã hội, điều chỉnh kịp thời những sai lầm và cũng tạo ra sự phát triển của con người. Nếu yêu cầu tự do chính đáng và hợp lý mà chậm đáp ứng thì kìm hãm sự phát triển, tạo nên sự xơ cứng và thụ động, làm mất động lực, mất sức mạnh của một tập thể, một cộng đồng, một dân tộc. Tốt nhất là giải quyết đáp ứng các yêu cầu chính đáng về tự do một cách không chậm trễ, không trì kéo, để mở đường, để thúc đẩy phát triển.

Ngày xưa, có thời kỳ châu Á đã có những bước tiến quan trọng trên con đường văn minh thì châu Âu còn trong đêm dài của thần quyền. Ai nói khác giáo hội sẽ bị đưa lên giàn hỏa thiêu. Vậy mà sau đó, qua các phong trào khai sáng, phục hưng, và tiếp sau nữa, châu Âu đã có bước tiến nhảy vọt trên con đường giải phóng tự do cá nhân, từ đó (và tất nhiên không chỉ thế) châu Âu đã phát triển vượt lên, bỏ châu Á lại phía sau trong đêm dài của chế độ phong kiến.

4. Quyền tự do bất khả xâm phạm

Tự do, như ta đã biết, bản thân nó đã là tất yếu, và rất rộng, trên tất cả các lĩnh vực, ở nơi đâu có hoạt động của con người. Nhưng mặt khác, tự do bao giờ cũng có giới hạn! Đó là giới hạn không xâm phạm tự do của người khác, không gây hại cho cộng đồng, cho quốc gia, gắn với trách nhiệm xã hội. Thông thường các khái niệm đều được giới hạn bởi một cái khác ngoài nó. Riêng tự do lại không giới hạn như vậy, mà lại được giới hạn bởi chính nó. Tự do được giới hạn bởi chính tự do (của người khác), tức là giới hạn bằng chính nó, chứ không phải bằng cái khác. Không được gây hại cho cộng đồng, cho quốc gia về bản chất cũng chính là không xâm phạm đến tự do của những người khác, giới hạn bằng tự do của người khác ấy cũng hình thành mặt thứ hai, là mặt “tất yếu” của tự do. Nói cách khác, tự do và tất yếu là hai mặt của cùng một chỉnh thể không tách rời nhau, không mâu thuẫn và không loại trừ nhau. Tự do được bước sang từ vương quốc tất yếu – là cách nói của Ăng-ghen. Như vậy, tự do là tất yếu, tất yếu phải tự do, tự do gắn với tất yếu, tất yếu để bảo đảm cho tự do, tất yếu bằng tự do (của người khác), tự do và tất yếu cùng song song tồn tại và phát triển.

Tuy nhiên, không được lợi dụng mặt thứ hai là “tất yếu”, nhân danh nó để cản trở tự do. Khi giai cấp (hoặc tập đoàn) cầm quyền mà không tiến bộ, kìm hãm lịch sử, C.Mác gọi họ là phản động, thì thường giải thích rằng tự do phải trong khuôn khổ ý chí của nhà cầm quyền. Nhà cầm quyền cho phép đến đâu thì mọi người được tự do đến đó. Thực chất, đó cũng là ngụy biện. Trong một quốc gia văn minh, xã hội được quản lý bằng luật pháp tiến bộ, với tư tưởng pháp quyền tối thượng, mọi người đều phải tuân theo, không ai, không tổ chức nào được đứng trên pháp luật. Đó cũng là mặt “tất yếu” của tự do. Mặt khác, pháp quyền ấy phải là pháp quyền tiến bộ, pháp quyền trên nền tảng của tư tưởng dân quyền (nền dân trị), trong đó quyền tự do của con người, nói cách khác là tự do cá nhân, và quyền dân chủ của công dân là hạt nhân trung tâm – cốt lõi. Như vậy, nền pháp quyền tiến bộ là nền pháp quyền không kiềm hãm tự do. Pháp quyền vừa là mặt “tất yếu” của tự do, vừa là công cụ bảo vệ tự do, giải phóng con người, làm cho con người được tự do và phát triển.

5. Quyền tự do và mối quan hệ giữa tự do với Nhà nước và pháp luật

Trong quan hệ của con người đối với con người, khi quyết định làm hay không làm một việc gì đó, mỗi người có thể không được hoàn toàn tự do hành động theo ý thích của mình, mà buộc phải hành động theo ý thích của người khác. Vì sao?

T.Hobbes (1588-1679) cho rằng, trong xã hội ở trạng thái chưa có pháp luật, con người luôn xâu xé lẫn nhau; không được an toàn; luôn bị đe dọa bởi những người khác; có thể làm bất kỳ điều gì, kể cả xâm phạm người khác; để đảm bảo sự an toàn cho mọi người và chấm dứt tình trạng chiến tranh, con người phải hạn chế tự do, phải chuyển nhượng quyền tự do của mình cho nhà nước, phải sống theo pháp luật. J.Locke (1632-1704) cho rằng, ai cũng có quyền ước muốn bất kỳ điều gì; nhưng con người cần phải từ bỏ tự do của mình để sống theo pháp luật; chính quyền cần phải bảo vệ những quyền cơ bản của con người, phải đảm bảo an toàn cho tự do của mọi người; pháp luật là cái cần thiết để đảm bảo tự do cho con người; trong pháp luật và dưới sự bảo vệ của pháp luật, các cá nhân trở nên an toàn hơn, đồng thời cũng bị hạn chế một phần tự do; nhưng tất cả mọi người đều tự nguyện chấp nhận điều đó; pháp luật được hình thành từ nhu cầu của chính con người nhằm bảo đảm cho họ các quyền con người một cách chắc chắn nhất. Montesquieu (1689-1755) cho rằng, tự do của mỗi công dân có quan hệ chặt chẽ với việc chính quyền áp dụng pháp luật; khi quyền lực nằm trong tay một người và được áp chế một chiều từ trên xuống thì không thể có tự do; pháp luật không được can thiệp vào đời sống riêng tư, phải bảo vệ cho người dân khỏi bị hại trong khi vẫn cho người dân tự do làm những gì có thể; khi con người tuân theo pháp luật thì một phần tự do của họ bị mất đi, nhưng họ được bảo vệ bằng sức mạnh của cả cộng đồng. J.J.Rousseau (1717-1778) cho rằng, trong trạng thái văn minh, con người có tự do, là người chủ thật sự của chính mình; người làm theo kích thích của dục vọng là người nô lệ; người tuân theo quy tắc do tự mình đặt ra là người tự do. Friedrich Hayek (1899-1992) cho rằng, tự do là quyền con người không thể chuyển nhượng; tự do không phải là quyền làm những gì mình muốn; pháp luật tạo ra tự do; các cá nhân cần biết trước cái gì được phép làm và cái gì không được phép làm; tự do khác với tình trạng vô chính phủ; sự cưỡng bức ở mức tối thiểu là cần thiết; tự do chân chính nhất quán với pháp luật và phụ thuộc vào pháp luật; pháp luật đích thực là hiện thân của tự do; pháp luật là nhân tố cốt lõi của tự do; nếu không có pháp luật thì không thể có tự do; có pháp luật đúng đắn là có tự do; pháp luật sản sinh ra tự do; mục đích của pháp luật không phải là bãi bỏ hay kiềm chế tự do, mà là giữ gìn và mở rộng tự do; ở đâu không có pháp luật thì ở đấy không có tự do; trong xã hội có tự do, sự cưỡng bức bị giảm thiểu tới mức có thể; khi pháp luật thống trị, mọi cá nhân đều sống trong khuôn khổ của pháp luật, đều bình đẳng trước pháp luật, đều phải tuân thủ pháp luật; nhưng đó không phải là tuân thủ một cách miễn cưỡng, hoặc là tuân thủ vì bị ép buộc, mà là tuân thủ một cách tự nguyện; các cá nhân được tự do làm những gì mình muốn, miễn không trái với pháp luật; pháp luật luôn đứng đằng sau để bảo vệ cho những hành vi không trái với pháp luật; nếu không có pháp luật cưỡng bức thì không thể có xã

C.Mác, Ph.Ănghen và V.I.Lênin cho rằng, trong các xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, pháp luật do giai cấp thống trị về kinh tế (giai cấp chủ nô, giai cấp địa chủ, giai cấp tư sản) đặt ra vì điều đó có lợi cho họ và nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế của họ; giai cấp bị thống trị về kinh tế (giai cấp nô lệ, giai cấp nông nô, giai cấp vô sản) không có quyền đặt ra pháp luật. Trong các xã hội ấy chỉ giai cấp thống trị mới có tự do; còn giai cấp bị thống trị không có tự do. Trong xã hội cộng sản sẽ không còn giai cấp, không còn nhà nước, không còn pháp luật, không còn cưỡng bức; ở đó lần đầu tiên mọi người đều có tự do, tự do của mỗi người là điều kiện cho tự do của mọi người. Về điều này, C.Mác và Ph.Ănghen viết: “Thay cho xã hội tư bản cũ với những giai cấp và những sự đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó, sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người”. V.I.Lênin cũng viết: “Chỉ trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, khi sự phản kháng của bọn tư bản đã hoàn toàn bị đập tan, khi bọn tư bản đã tiêu tan đi rồi và không còn có giai cấp nữa (nghĩa là giữa những thành viên trong xã hội không còn có sự phân biệt nào nữa về những quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất xã hội), chỉ lúc đó “nhà nước mới không còn nữa và mới có thể nói đến tự do”; “Cho nên, bất kỳ nhà nước nào cũng đều không tự do, đều không có tính chất nhân dân. Điều đó C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải thích nhiều lần cho các đồng chí trong đảng vào những năm 70”; “Chừng nào còn nhà nước, thì chừng đó không có tự do. Đến khi có tự do thì không còn nhà nước nữa”; “Mà chuyên chính vô sản, nghĩa là việc tổ chức đội tiền phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để trấn áp bọn áp bức, thì không thể giản đơn đóng khung trong việc mở rộng chế độ dân chủ được. Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ – lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu – chuyên chính vô sản còn thực hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản. Chúng ta phải trấn áp bọn đó để giải phóng nhân loại khỏỉ chế độ nô lệ làm thuê, phải dùng bạo lực để đập tan sự phản kháng của chúng, và chỗ nào có trấn áp, có bạo lực, thì đương nhiên là chỗ đó không có tự do mà cũng không có dân chủ”.

Như vậy, về vấn đề tự do trong quan hệ của con người đối với con người, quan niệm của C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin khác với quan niệm của T.Hobbes, J.Locke, Montesquieu, J.J.Rousseau, F.Hayek. Sự khác nhau đó thể hiện ở chỗ, theo C.Mác và Ph.Ănghen,V.I.Lênin khi còn nhà nước và pháp luật thì còn cưỡng bức, còn cưỡng bức thì không có tự do cho mọi người; còn theo T.Hobbes, J.Locke, Montesquieu, J.J.Rousseau, F.Hayek, khi còn nhà nước và pháp luật (dù với giả định pháp luật là đúng đắn) thì không có sự cưỡng bức, từ đó có tự do cho mọi người.

Còn nhà nước và pháp luật thì không có tự do. Quan niệm đó của C.Mác và Ph.Ănghen, V.I.Lênin là đúng đắn. Vì sao? Nếu như trên thế giới chỉ có một người thì người đó có thể làm bất cứ việc gì tùy thích. Nhưng khi có hai người trở lên thì xã hội hình thành. Lúc này, mỗi người không thể làm bất cứ việc gì tùy thích (tức là không thể có tự do hoàn toàn). Việc làm của mỗi người ít nhiều đều ảnh hưởng đến người khác theo hướng đồng thuận (đồng ý) hoặc hướng không đồng thuận (không đồng ý). Nếu việc làm của người này không đồng thuận với người khác thì sự tự do hành động theo ý thích của người này ít nhiều sẽ chà đạp lên sự tự do hành động theo ý thích của người khác. Để tránh tình trạng như vậy, mỗi người đều phải hành động theo quy tắc chung. Khi thỏa thuận đề ra quy tắc chung, mỗi người đều phải từ bỏ một phần ý thích của mình. Ngay trong một gia đình chỉ có hai người thì hai người đó cũng phải xây dựng quy tắc chung và cam kết thực hiện quy tắc chung đó (hay phải “khắc kỷ phục lễ” như cách nói của các nhà nho). Các quy tắc chung mà mọi người cam kết thực hiện có thể là quy tắc mà mọi người cam kết thực hiện tự nguyện, hoặc là quy tắc mà mọi người cam kết thực hiện không tự nguyện. Không tự nguyện là cưỡng bức (ép buộc).

Tự nguyện là không cưỡng bức. Trong xã hội chưa có nhà nước, các quy tắc chung (để điều chỉnh hành vi của con người) đều là quy tắc mà mọi người cam kết thực hiện tự nguyện, đó là các quy tắc đạo đức. Người nào vi phạm các quy tắc đạo đức thì không bị trấn áp bằng bạo lực (tức là không bị trấn áp bằng các biện pháp hành chính và hình sự), mà chỉ bị dư luận chê trách. Từ xưa đến nay xã hội nào và ở nơi nào cũng đều có các quy tắc đạo đức như vậy. Khi cam kết thực hiện tự nguyện các quy tắc đạo đức, mỗi người đều tự nguyện từ bỏ một phần ý thích riêng. Từ bỏ một phần ý thích riêng là tự nguyện từ bỏ một phần tự do. Trong xã hội chưa có nhà nước (và do đó chưa có pháp luật), mọi người tuy đều có tự do nhưng phải từ bỏ tự nguyện một phần tự do của mình. Đó là biểu hiện của tính tương đối của tự do trong xã hội chưa có nhà nước.

Trong xã hội có nhà nước, không chỉ có các quy tắc được mọi người cam kết thực hiện tự nguyện, mà còn có các quy tắc mà một số người phải cam kết thực hiện không tự nguyện. Quy tắc mà một số người phải cam kết thực hiện không tự nguyện là quy tắc pháp luật. Người nào vi phạm các quy tắc pháp luật thì bị người khác trấn áp bằng bạo lực (bằng các biện pháp hành chính và hình sự). Đối với quy tắc pháp luật, một số người này thì cam kết thực hiện tự nguyện vì điều đó có lợi cho họ, nhưng một số người khác thì cam kết thực hiện không tự nguyện vì điều đó không có lợi cho họ. Một số người tuy không tự nguyện (không thích) thực hiện pháp luật nhưng vẫn cam kết thực hiện pháp luật vì họ lo sợ bị người khác trấn áp bằng bạo lực. Đối với họ, thực hiện pháp luật dù không tự nguyện vẫn còn hơn bị trấn áp bằng bạo lực. Người nào tuân theo pháp luật một cách tự nguyện thì người đó có tự do. Người nào tuân theo pháp luật một cách không tự nguyện thì người đó không có tự do. Khi còn nhà nước thì không có chuyện mọi người đều được tự do. Trong xã hội có nhà nước, một số người không có tự do vì phải tuân theo pháp luật một cách không tự nguyện. Đó là một biểu hiện của tính tương đối của tự do trong xã hội có nhà nước.

Trong xã hội có nhà nước dân chủ, những người nắm giữ chính quyền do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số (giả định bầu cử là công bằng, phản ánh đúng nguyện vọng của cử tri). Những người nắm giữ chính quyền đại diện cho lợi ích của nhóm đa số, pháp luật mà họ đặt ra nhằm đem lại lợi ích cho nhóm đa số. Những người nắm giữ chính quyền do không được sự ủng hộ của nhóm thiểu số, nên không phải bao giờ cũng đại diện cho lợi ích của nhóm thiểu số (mặc dù trên danh nghĩa họ đại diện cho lợi ích của toàn thể nhân dân, cho cả nhóm đa số lẫn nhóm thiểu số); pháp luật mà họ đặt ra không phải bao giờ cũng đem lại lợi ích của nhóm thiểu số. Ví dụ, chính sách tăng thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao không có lợi cho người có thu nhập cao (những người này là nhóm thiểu số), nhưng có lợi cho người có thu nhập thấp (những người này là nhóm đa số); người có thu nhập cao thì phản đối chính sách đó; người có thu nhập thấp lại ủng hộ chính sách đó. Nhóm đa số vì có lợi nên tuân theo pháp luật một cách tự nguyện; còn nhóm thiểu số vì không có lợi nên tuân theo pháp luật một cách không tự nguyện. Trong trường hợp cảm thấy có sự bất lợi lớn, nhóm thiểu số có thể tiến hành biểu tình hòa bình phản đối pháp luật (thậm chí họ có thể không tuân theo pháp luật, nhưng trong trường hợp này thì xã hội rơi vào tình trạng bạo loạn). Nhóm thiểu số vì tuân theo pháp luật một cách không tự nguyện nên không có tự do.

Trong xã hội có nhà nước không dân chủ, những người nắm giữ chính quyền không được nhân dân bầu ra, mà tự phong hoặc được cử bởi một cá nhân hoặc một nhóm người nào đó; pháp luật mà họ đặt ra vì lợi ích của nhóm thiểu số, chứ không vì lợi ích của nhóm đa số. Nhóm thiểu số vì có lợi nên tuân theo pháp luật một cách tự nguyện; còn nhóm đa số vì không có lợi nên tuân theo pháp luật này một cách không tự nguyện. Nhóm đa số vì tuân theo pháp luật một cách không tự nguyện nên không có tự do.

Tóm lại, trong xã hội có nhà nước (kể cả nhà nước dân chủ và nhà nước không dân chủ), một số người không có tự do; bởi vì vẫn có một số quy định pháp luật bất lợi cho họ, đối với quy định pháp luật này họ không tự nguyện thực hiện. Đó là biểu hiện của tính tương đối của tự do trong xã hội có nhà nước.