Khách hàng: Kính thưa Luật sư, liên quan đến năng lực áp dụng tự vệ thương mại trong thương mại quốc tế của Việt Nam xin Luật sư của LVN Group hãy nêu một số kiến nghị về điều kiện nhằm nâng cao năng lực áp dụng tự vệ thương mại trong thương mại quốc tế của Việt Nam? Và một số khái niệm liên quan đến vấn đề?

Cảm ơn!

Trả lời:

 

1. Kiến nghị đối với Chính phủ

Chính phủ giao Bộ Công Thương xây dựng các đề án, dự thảo chương trình nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến tự vệ thương mại, xây dựng và trình Chính phủ phê duyệt các chương trình xây dựng năng lực cán bộ điều tra về tự vệ thương mại và tổ chức thực hiện.

Trong đàm phán các FTA hiện nay đều có các nội dung liên quan đến tự vệ thương mại, trong đó có rất nhiều điều khoản mới vừa mở rộng phạm vi chi tiết và linh hoạt hơn các cam kết trong Hiệp định SG, Chính phủ cần giao các cơ quan chức năng nghiên cứu kỹ lưỡng, đánh giá được những lợi ích cũng như thiệt hại tiềm tàng từ việc bồi thường hay trả đũa của bên bị áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại chính thức.

Chính phủ phê duyệt chủ trương cho phép hình thành quỹ bồi thường hoặc dự phòng thanh toán cho các thiệt hại của bên xuất khẩu khi bị áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại, hoặc ngành sản xuất bị ảnh hưởng từ các quyết định áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại.

Xây dựng và ban hành cơ chế phối hợp liên ngành giữa các bộ về phòng vệ thương mại, trong đó có tự vệ thương mại.

 

2. Kiến nghị đối với các Bộ, ngành liên quan

Triển khai, thực thi về mặt chuyên môn, kỹ thuật đối với các loại hàng hoá nhập khẩu trong diện điều tra có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ do Bộ, ngành quản lý.

Tăng cường sự phối hợp với cơ quan đầu mối về tự vệ thương mại là Bộ Công Thương để thực hiện xây dựng phương án cử cán bộ phối hợp điều tra tự vệ thương mại.

Phối hợp hiệu quả, kịp thời với cơ quan điều tra trong việc cung cấp thông tin phục vụ điều tra.

 

3. Kiến nghị đối với các Hiệp hội ngành hàng

Hiệp hội ngành hàng nơi tập hợp các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực, nơi đại diện và bảo vệ lợi ích, quyền lợi của doanh nghiệp, do đó, Hiệp hội là nơi thích hợp để truyền tải các thông tin chuyên môn cho doanh nghiệp liên quan đến các vụ việc phòng vệ thương mại trong đó có tự vệ thương mại.

Các hiệp hội cần xây dựng chương trình phối hợp với Bộ Công Thương và các bộ ngành có liên quan đến tự vệ thương mại, để được cung cấp thông tin thường xuyên hoặc nhận tư vấn từ các đơn vị chuyên môn như Hội đồng tư vấn các biện pháp phòng vệ thương mại quốc tế, Cục Phòng vệ thương mại, từ đó truyền tải tới các doanh nghiệp thành viên của mình. Cách thức này vừa hiệu quả, vừa đúng đối tượng và tiết kiệm được nguồn lực.

Từ góc độ thực tiễn, hiệp hội ngành hàng là đầu mối tập hợp các doanh nghiệp sản xuất trong cùng một ngành, một lĩnh vực cụ thể. Vì vậy, đây được xem là đầu mỗi thích hợp nhất để liên kết, phối hợp hành động chung giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất sản phẩm liên quan. Từ góc độ pháp luật, một hiệp hội mà phần lớn các hội viên sản xuất sản phẩm liên quan có quyền đứng đơn kiện cùng các doanh nghiệp liên quan.

Các hiệp hội ngành hàng cũng cần lập quỹ được tạo thành thì nguồn lực của hiệp hội và từ các hội viên bởi ngoài các chi phí riêng từ doanh nghiệp, cũng có một số hoạt động cần hành động chung của nhiều doanh nghiệp thông qua hiệp hội.

 

4. Bình luận kiến nghị về điều kiện nhằm nâng cao năng lực áp dụng tự vệ ở Việt Nam

Như vậy, để nâng cao năng lực áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở Việt Nam cần những hành động thực chất cả về thực tiễn lẫn pháp luật, của cả các doanh nghiệp, hiệp hội và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong quá trình này, cần chú ý là các giải pháp đề xuất có quan hệ qua lại với nhau kể cả về chủ thể và cách thức thực hiện.

Vì vậy để đạt hiệu quả tốt nhất, các giải pháp này cần được thực hiện đồng thời, với sự phối hợp đồng thời của các chủ thể liên quan. Việc sửa đổi, hoàn thiện pháp luật của các cơ quan Nhà nước cần sự tham gia tích cực của doanh nghiệp. Vì vậy, việc nâng cao năng lực áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại của cơ quan có thẩm quyền cũng như nâng cao nhận thức của doanh nghiệp hầu như hoàn toàn có thể thực hiện được trọn vẹn nếu có được những giải pháp quyết liệt và đồng bộ nhằm bảo vệ có thời hạn sản xuất trong nước trước làn sóng nhập khẩu đầy biến động và bất thường của tiến trình tự do hoá thương mại.

 

5. Năng lực áp dụng tự vệ thương mại trong thương mại quốc tế

Thông thường, khái niệm năng lực theo nghĩa hẹp chỉ đề cập đến con người và những yếu tố liên quan đến con người cụ thể khi thực hiện các nhiệm vụ hay hành động có chủ đích nào đó.

Trong khuôn khổ chúng ta nghiên cứu về “Năng lực” này là sẽ nghiên cứu về năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế được xem xét trên phương diện là năng lực xây dựng các qui định pháp lý về tự vệ trong thương mại quốc tế và năng lực tổ chức, quản lý và thực hiện/áp dụng biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá (năng lực tổ chức và cá nhân) của một quốc gia.

Trong thương mại quốc tế hàng hoá, dịch vụ được di chuyển qua biên giới các quốc gia. Vì vậy, hoạt động thương mại quốc tế phụ thuộc nhiều vào chính sách thương mại của các nước liên quan, đặc biệt là việc quản lí thương mại quốc tế thông qua các công cụ chính sách như thuế, hạn ngạch và các công cụ, biện pháp phi thuế quan khác của các nước. Chính phủ các nước có thể sử dụng các hàng rào (thuế quan và phi thuế quan) để ngăn ngừa hay điều tiết luồng hàng hoá nhập khẩu để bảo vệ sản xuất, thị trường và doanh nghiệp trong nước, hoặc cũng có thể sử dụng các công cụ khác nhau như các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp (trợ cấp không bị khiếu kiện, trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện) và trong khuôn khổ của cuốn sách này sẽ tập trung đề cập đến biện pháp tự vệ trong nhập khẩu để giúp các doanh nghiệp trong nước tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, cũng như sản xuất trong nước chống đỡ với luồng hàng hoá nhập khẩu quá mức theo cam kết và qui định quốc tế.

Trong khung khổ WTO, mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ, nhưng khi áp dụng phải bảo đảm tuân theo các qui định của WTO mà ở đây là Hiệp định về các biện pháp tự vệ. Đây là Hiệp định qui định khi nào và bằng cách nào các nước thành viên có thể vận dụng Điều XIX của GATT về qui định khả năng áp dụng hành động khẩn cấp để bảo vệ ngành sản xuất (công nghiệp, nông nghiệp) trong nước khỏi việc gia tăng khối lượng hàng hoá nhập khẩu không lường trước đang gây ra hoặc có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng tới ngành sản xuất của quốc gia.

Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết và là cơ sở để các cơ quan nhà nước/cơ quan của chính phủ thực hiện áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế là phải có yêu càu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại của các doanh nghiệp hoặc đại diện pháp lý của họ. Như vậy, năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế còn phụ thuộc vào năng lực của doanh nghiệp trong việc xác định được thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước, làm cơ sở để đệ đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại lên các cơ quan chức năng giải quyết.

 

6. Tự vệ trong thương mại quốc tế

Thuật ngữ “tự vệ” theo WTO được hiểu là hành động khẩn cấp của nước nhập khẩu trước việc gia tăng nhập khẩu của một loại hàng hoá cụ thể, khi mà sự gia tăng nhập khẩu này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa đó trong nước.

Tuy nhiên, đây chỉ là quan niệm, cách hiểu cơ bản và vận dụng về biện pháp tự vệ, không phải là định nghĩa phản ánh đầy đủ bản chất của hành động tự vệ. Vì vậy, trong các tài liệu nghiên cứu về tự vệ của WTO có đưa ra thêm một số giải thích bổ sung.

Chẳng hạn như, trong tài liệu giải thích về Điều XIX Hiệp định GATT 1994, ở mục 797 khi nhắc đến phán quyết của Uỷ ban phúc thẩm trong vụ kiện Argentina – Footwear nêu rõ biện pháp tự vệ theo qui định tại Điều XIX có đặc trưng là tính khẩn cấp, được áp dụng chỉ duy nhất trong trường hợp mà do kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định GATT 1994, một thành viên nhận thấy quốc gia mình rơi vào những hoàn cảnh mà “không lường trước được” hoặc “ngoài dự đoán” khi đặt ra/đàm phán và ký kết cam kết liên quan.

Theo Yong Shik Lee, Safeguard Measures in world trade, The Legal Analysis, Third Edition (2014) (Các biện pháp tự vệ trong thương mại thế giới: Phân tích pháp lý. Tái bản lần 3 (2014)) xác định, thuật ngữ “biện pháp tự vệ” được sử dụng để đề cập đến hạn chế nhập khẩu, được áp dụng như là một biện pháp tạm thời khi có sự gia tăng nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp.

Theo Yong Shik Lee, tự vệ còn có thể hiểu rộng hơn, gồm những trường hợp các bên “dị ngược lại” với những cam kết của mình và hạn chế nhập khẩu, không tính đến việc có hay không hành vi thương mại không lành mạnh: Điều XIX, XII, XVIII Hiệp định GATT 1994, Hiệp định Tự vệ (Hiệp định SG), Hiệp định nông nghiệp (AOA), Điều XII Hiệp định GATS. Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc, cho phép tự vệ cụ thể và đặc biệt là đến các sản phẩm trong thời gian chuyển đổi, chỉ áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu từ nước này. Biện pháp tự vệ nói chung (Điều XIX của GATT) được áp dụng cho mọi loại hàng hoá, trong khi những biện pháp tự vệ khác chỉ áp dụng giới hạn cho một số hàng hoá (sản phẩm nông nghiệp, dệt may), hoặc có thể không hướng đến việc bảo vệ hay ngăn ngừa thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước (đối với trường hợp sử dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ cán cân thanh toán).

Biện pháp tự vệ thường được áp dụng một cách khắt khe hơn và phức tạp hơn biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, vì để áp dụng biện pháp này, cơ quan điều tra phải chứng minh được tình trạng thiệt hại nghiêm trọng mà ngành sản xuất hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp trong nước phải chịu do sự gia tăng (về quy mô, số lượng) của hàng hoá nhập khẩu. Biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu những hàng hoá đó tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.

Trân trọng!