1. Khái niệm đại diện.

Đại diện là một trong những chế định quan trọng của pháp luật dân sự, được ghi nhận trong pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả những quốc gia theo hệ thống Civil Law cũng như các quốc gia theo hệ thống Common Law. Tại quốc gia theo hệ thống Common Law thậm chí còn có cả một học thuyết riêng về đại diện (Law of Agency); còn ở những quốc gia theo hệ thống Civil Law, ở những mức độ khác nhau, các quy định về đại diện cũng được ghi nhận từ rất sớm trong các Bộ luật Dân sự. Trong đời sống hàng ngày, để thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, con người bắt buộc phải tham gia vào rất nhiều các giao dịch dân sự khác nhau. Có những trường hợp các chủ thể sẽ tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự. Tuy nhiên, trên thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong nhiều trường hợp các chủ thể không thể hoặc không muốn tự minh tham gia vào một số giao dịch nhất định. Lúc này, họ cần đến một người có thể thay mặt họ xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự “nhân danh và vì lợi ích” của họ. Xuất phát từ nhu cầu và sự thừa nhận các dạng quan hệ này trong thực tế, pháp luật dân sự đã ghi nhận quan hệ đại diện cũng như các cơ chế để thực hiện quan hệ này.

Pháp luật dân sự của các nước trên thế giới có nhiều cách hiểu và định nghĩa về đại diện khác nhau.
 Điều 99 BLDS Nhật Bản năm 2005 quy định về đại diện như sau: Sự biểu lộ ý chí bởi người đại diện thể hiện rằng sự biểu lộ ý chí đó được lập ra nhân danh người được đại diện trong phạm vi thẩm quyền của người đại diện ràng buộc người được đại diện; các quy định này được áp dụng với những sửa đổi thích hợp đối với bất kỳ sự biểu lộ ý chí nào bởi người thứ ba tới người đại diện. Quy định này cho thấy: (1) việc trao quyền đại diện không nhất thiết là một hợp đồng, có nghĩa là có thể bởi các nguồn gốc hay căn cứ khác; (2) người đại diện không nhất thiết phải hành động trong lĩnh vực xác lập hay thực hiện giao dịch dân sự; (3) yêu cầu người đại diện phải thể hiện sự nhân danh người được đại diện.
Pháp luật Anh giải thích thuật ngữ đại diện (agency) được sử dụng để chỉ mối quan hệ tồn tại khi một người có thẩm quyền hoặc năng lực để tạo lập mối quan hệ pháp lý giữa một người giữ vai trò là người được đại diện và người thứ ba. Và nó được giải thích thêm là quan hệ đại diện xuất hiện bất kỳ khi nào một người, được gọi là người đại diện (agent), có thẩm quyền hành động nhân danh người khác, được gọi là người được đại diện (principal), và bằng lòng hành động như vậy.

Đại diện là một chế định quan trọng trong đời sống pháp lý xã hội. Bất kỳ hệ thống pháp luật nào cũng đều xem đây là một chế định quan trọng, chế định trung tâm của luật dân sự hiện đại. Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: 

“Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. 

Mặc dù quy định này không chỉ ra nguồn gốc hay căn cứ làm phát sinh ra quan hệ đại diện, nhưng chỉ rõ phạm vi thẩm quyền và mục tiêu của quan hệ đại diện là hướng tới việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, và những yêu cầu cần đáp ứng khi thực hiện hành động đại diện. Đại diện là một quan hệ pháp luật. Chủ thể của quan hệ đại diện bao gồm người đại diện và người được đại diện. Người đại diện là người nhân danh người được đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba, vì lọi ích của người được đại diện. Người được đại diện là người tiếp nhận các hậu quả pháp lí từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện. Người được đại diện có thể là cá nhân không có năng lực hành vi, chưa đủ năng lực hành vi nên theo quy định của pháp luật phải có người đại diện trong quan hệ pháp luật. Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi có thể uỷ quyền cho người khác là đại diện theo uỷ quyền của mình. Pháp nhân hoạt động thông qua hành vi của những người nhất định có thẩm quyền đại diện cho chủ thể đó.

Quan hệ đại diện có thể được xác định theo quy định của pháp luật, có thể được xác định theo ý chí cùa các chủ thể tham gia, thể hiện bằng giấy uỷ quyền hoặc hợp đồng uỷ quyền. Trong phạm vi thẩm quyền đại diện, người đại diện xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, đem lại quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện.

2.  Các loại quan hệ đại diện.

2.1 Đại diện theo pháp luật của cá nhân.

Đại diện theo pháp luật của cá nhân đặt ra trong trường hợp khi cá nhân không thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự do những hạn chế về độ tuổi (là người chưa thành niên) hoặc do hạn chế về khả năng nhận thức và làm chủ hành vi (người bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi). Nói cách khác, những chủ thể này không có khả năng hoặc chưa đủ khả năng tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Do đó, để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể này, Điều 136 Bộ luât dân sự 2015 quy định về người đại diện theo pháp luật của cá nhân bao gồm:

Cha, mẹ đổi với con chưa thành niên. Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Dưới góc độ tâm lý học và sinh học thì người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, hoàn thiện cả về thể chất, tâm sinh lý, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ nhất các quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia các giao dịch dân sự. Việc tự tham gia, xác lập các giao dịch dân sự sẽ tiềm ẩn nhiều nguy cơ mang lại các hậu quả pháp lý bất lợi cho họ. Do vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của người chưa thành niên, pháp luật quy định cha, mẹ sẽ là người đại diện theo pháp luật, xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của con chưa thành niên.

Người giám hộ đổi với người được giám hộ. Người giám hộ là người đại diện theo pháp luật của người được giám hộ: Một là, giám hộ đối với người thưa thành niên khi rơi vào các trường hợp luật định, bao gồm: 1. đối với người được giám hộ là người chưa thành niên không ccòn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; 2. Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; 3. Cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; 4. Cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; 5. Cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; 6. Cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ thì người đại diện theo pháp luật (cũng chính là người giám hộ) của những người này có thể là một trong số những người sau (Điều 52 Bộ luật Dân sự năm 2015): Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả của người chưa thành niên hoặc anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo của người chưa thành niên. Trường hợp không có anh ruột, chị ruột thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại sẽ là người đại diện theo pháp luật người chưa thành niên; Trường hợp không có ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột ngoại sẽ là người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên; Hai là, đối với người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật của những người này được xác định như sau: nếu vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người đại diện theo pháp luật và ngược lại; nếu cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người đại diện theo pháp luật của cha, mẹ; nếu người con cả không có đủ điều kiện thì người con tiếp theo có đủ điều kiện sẽ là người đại diện theo pháp luật của cha, mẹ; Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người đại diện theo pháp luật cho con; Ba là, đối với người được giám hộ là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi do Tòa án chỉ định. Khi được Tòa án chỉ định làm người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người giám hộ cũng đồng thời là người đại diện theo pháp luật của người này.

Người do Tòa án chỉ định. Trong trường hợp không xác định được người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, người bị mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi thì Tòa án sẽ chỉ định người đại diện theo pháp luật cho các cá nhân đó. Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự như người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn che năng lực hành vi dân sự. 

2.2 Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân.

Pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật như là một chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ thể khác, cho nên pháp nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Khác với năng lực chủ thể của cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân phát sinh đồng thời và tồn tại tương ứng cùng với thời điểm thành lập và đình chỉ pháp nhân. Đối với các pháp nhân theo quy định phải đăng ký hoạt động thì năng lực chủ thể phát sinh kể từ thời điểm đăng ký.

Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.

Pháp nhiên là sự cắn kết của một tập thể cá nhân hoặc pháp nhân khác nên không phải trong mọi hoạt động của pháp nhân đều có sự tham gia của tất cả các thành viên pháp nhân Hoạt động của pháp nhân thông qua vai trò của nhiều cá nhân khác nhau, trong đó cá nhân có vai trỏ trực tiếp quan trọng nhất là người đại diện của pháp nhân. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (là người đại diện) nhân danh và Vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Người đại diện của pháp nhân bao gồm: người đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền Việc xác lập đại diện, phạm vi quyền và nghĩa vụ của người đại diện, việc chấm dứt đại diện của pháp nhân áp dụng các quy định tại Chương IX Phần thứ nhất của Bộ luật dân sự năm 2015.

Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được xác định dựa trên các căn cứ sau đây:

+ Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ (đối với những pháp nhân bắt buộc phải có điều lệ);

+ Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;

+ Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án (Điều 37 BLDS năm 2015)

Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập giữa người đại diện theo pháp luật của pháp nhân với cả nhân, pháp nhân khác. Người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân cũng nhân danh pháp nhân thực hiện những nhiệm vụ cụ thể do pháp nhân giao. Việc xác định quyền hạn, trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền được xác định dựa trên văn bản ủy quyền đã được ký kết.

Như vậy, mọi hoạt động của pháp nhân được thực hiện thông qua hành vi của người đại diện của pháp nhân. Đại diện của pháp nhân là người nhân danh pháp nhân tham gia các giao dịch vì lợi ích của pháp nhân đó. Người đại diện của pháp nhân do pháp luật hoặc Điều lệ của pháp nhân quy định và họ có thể ủy quyền lại cho người khác. Với tư cách là người đại diện của pháp nhân, hành vi của người đại diện vì lợi ích của pháp nhân và trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được pháp nhân giao là hành vi của pháp nhân mà người đó đại diện, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân chứ không phải của bản thân người đại diện. Ý chí của các thành viên pháp nhân được thể hiện thống nhất thông qua người đại diện.

2.3. Đại diện theo uỷ quyền.

Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền của các cá nhân hay pháp nhân với người được uỷ quyền. Quan niệm này được luật hoá tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Dân sự hiện hành. Đại diện theo ủy quyền bao gồm: đại diện theo ủy quyền của cá nhân và đại diện theo ủy quyền của pháp nhân.

Đại diện theo ủy quyền của cá nhân được xác lập giữa một bên (bên ủy quyền) là cá nhân và bên kia (bên được ủy quyền) là cá nhân hoặc pháp nhân khác. Nếu như trong đại diện theo pháp luật của cá nhân chỉ đòi hỏi một bên chủ thể là người đại diện phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện, còn bên kia (người được đại diện) có thể là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì trong đại diện theo ủy quyền, cả bên đại diện và bên được đại diện đều phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập, thực hiện. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện (Khoản 3 Điều 138 Bộ luật dân sự 2015.)

Uỷ quyền là phương tiện pháp lí cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân, hộ gia tình, tổ hợp tác bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia vào giao dịch dân sự một cách thuận lợi nhất, bảo đảm thoả mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm.

Ngoại lệ, có một số trường hợp pháp luật không cho phép xác lập giao dịch thông qua người đại diện (bất kể đại diện theo pháp luật hay theo uỷ quyền) như lập di chúc…

Người đại diện (cả người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo uỷ quyền) có thể là cá nhân hoặc pháp nhân (nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ). Ngoại lệ, riêng đối với đại diện theo uỷ quyền thì người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể là người đại diện theo uỷ quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.