1. Hợp đồng chấm dứt trong trường hợp nào?
Các căn cứ chấm dứt hợp đồng là các yếu tố, các sự kiện xảy ra có kết quả làm hợp đồng chấm dứt, không còn hiệu lực thi hành đối với các bên. Theo quy định của Điều 422 Bộ luật dân sự 2015 thì hợp đồng chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
Điều 422. Chấm dứt hợp đồng
Hợp đồng chấm dứt trong trường hợp sau đây:
1. Hợp đồng đã được hoàn thành;
2. Theo thỏa thuận của các bên;
3. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;
4. Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện;
5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn;
6. Hợp đồng chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này;
7. Trường hợp khác do luật quy định.
– Hợp đồng hoàn thành là khi các bên chủ thể trong hợp đồng đã thực hiện xong nội dung các nghĩa vụ được ghi nhận trong hợp đồng. Việc hoàn thành nghĩa vụ được hiểu trong hai trường hợp:
+ Khi bên có nghĩa vụ đã thực hiện xong toàn bộ nghĩa vụ hoặc
+ Bên có nghĩa vụ đã thực hiện được một phần nghĩa vụ, phần còn lại được bên có quyền miễn. Ví dụ: A và B giao kết hợp đồng mua bán nhà, giá nhà được thỏa thuận là 300 triệu đồng. A đã bàn giao nhà cho B; B đã trả A 295 triệu đồng, còn 5 triệu thì A miễn cho B không phải trả. Vậy trong trường hợp này, nghĩa vụ của người bán và người mua đã hoàn thành nên hợp đồng mua bán chấm dứt.
– Theo thỏa thuận của các bên là trường hợp hợp đồng chấm dứt khi các quyền và nghĩa vụ chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa xong nhưng hợp đồng vẫn chấm dứt theo sự bàn bạc, thống nhất của các bên chủ thể.
– Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại thì sẽ xảy ra hai trường hợp:
+ Hợp đồng vẫn có hiệu lực nếu có thể do cá nhân, pháp nhân khác thực hiện. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu việc thực hiện nội dung của hợp đồng không thể chuyển giao sang cho cá nhân, pháp nhân khác thì hợp đồng đó cũng phải chấm dứt.
+ Hợp đồng sẽ chấm dứt nếu hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện. Đây là trường hợp hợp đồng không thể chuyển giao sang cho chủ thể khác thực hiện được, đó có thể là những hợp đồng mà bên có quyền yêu cầu chính cá nhân, pháp nhân mang nghĩa vụ phải thực hiện hoặc do tính chất của hợp đồng mà không thể chuyển giao sang cho chủ thể khác: ví dụ: hợp đồng liên quan đến bí mật của bên có quyền, liên quan đến khả năng thực hiện của bên có nghĩa vụ,…
– Hợp đồng bị hủy bỏ, đơn phương chấm dứt hợp đồng là một trong những trường hợp làm chấm dứt hợp đồng. Khi bị hủy bỏ, hợp đồng không có giá trị kể từ thời điểm giao kết, hậu quả pháp lý của hợp đồng bị hủy bỏ giống với trường hợp hợp đồng vô hiệu, các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. Còn đối với trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng, dù làm chấm dứt hợp đồng thực tế tuy nhiên phần hợp đồng đã được thực hiện có giá trị pháp lý, chỉ phần hợp đồng chưa thực hiện mới không có giá trị pháp lý.
– Đối tượng của hợp đồng không còn cũng là một trường hợp làm chấm dứt hợp đồng. Trong trường hợp này, hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn, đồng thời không có sự thay thế đối tượng khác.
– Hợp đồng chấm dứt khi hoàn cảnh thực hiện hợp đồng thay đổi. Đây là một điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 so với Bộ luật dân sự cũ, theo đó, một trong những sự thay đổi hoàn cảnh khiến không thể thực hiện được hợp đồng thì hợp đồng sẽ chấm dứt.
– Ngoài các trường hợp nêu trên, hợp đồng chấm dứt có thể chấm dứt theo quy định khác của pháp luật.
2. Thực hiện sửa đổi hợp đồng trong trường hợp nào?
Sửa đổi hợp đồng là việc thay đổi một hoặc một số nội dung trong hợp đồng đã có hiệu lực.
Theo Điều 421 Bộ luật dân sự 2015:
Điều 421. Sửa đổi hợp đồng
1. Các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng.
2. Hợp đồng có thể được sửa đổi theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này.
3. Hợp đồng sửa đổi phải tuân theo hình thức của hợp đồng ban đầu.
Như vậy, các bên thỏa thuận sửa đổi hợp đồng và hợp đồng có thể thay đổi theo quy định tại Điều 420 Bộ luật dân sự 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Bộ luật dân sự cũ ghi nhận việc sửa đổi hợp đồng không được thực hiện đối với những trường hợp pháp luật có quy định khác. Có thể kể ra trường hợp việc sửa đổi hợp đồng dù do các bên thỏa thuận cũng không được thực hiện: Khi người thứ ba đã đồng ý hưởng lợi ích thì dù hợp đồng chưa được thực hiện, các bên giao kết hợp đồng cũng không được sửa đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng trừ trường hợp được người thứ ba đồng ý (Điều 417), hoặc cũng có trường hợp, sự sửa đổi lại không do các bên thỏa thuận mà do Tòa án thực hiện (khoản 3 Điều 420).
Ngoài ra, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng sửa đổi phải tuân theo hình thức của hợp đồng ban đầu ”, điều này chỉ phù hợp nếu như hợp đồng ban đầu có quy định về mặt hình thức, còn với những hợp đồng không bắt buộc tuân thủ về mặt hình thức thì sự sửa đổi hợp đồng có thể thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau.
3. Đặc điểm của việc sửa đổi hợp đồng
– Sửa đổi hợp đồng xuất phát từ sự thỏa thuận của các bên chủ thể, khi các bên chủ thể không thỏa thuận thì việc sửa đổi hợp đồng không có giá trị;
– Việc sửa đổi hợp đồng chỉ được thừa nhận khi hợp đồng đã có hiệu lực, nếu thực hiện việc sửa đổi trước thời gian hợp đồng có hiệu lực thì được coi là sự thay đổi trong quá trình thương lượng, thỏa thuận giữa các bên để hình thành nội dung của hợp đồng;
– Việc sửa đổi chỉ có thể làm thay đổi một phần nội dung của hợp đồng, không làm thay đổi toàn bộ hợp đồng, vì nếu thay đổi toàn bộ nội dung của hợp đồng thì đó là thay thế một bản hợp đồng mới cho bản họp đồng đang tồn tại;
– Nội dung hợp đồng sửa đổi sẽ có hiệu lực pháp luật, thay thế nội dung phần hợp đồng cũ.
4. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng
Theo quy định tại Điều 428 Bộ luật dân sự 2015 thì một bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp sau đây:
– Khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng;
– Do các bên thỏa thuận về điều kiện đơn phương chấm dứt;
– Do pháp luật quy định về trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng có thể do sự vi phạm hợp đồng của một bên hoặc là ý chí chủ quan của bên thực hiện quyền đơn phương, không muốn tiếp tục tham gia thực hiện hợp đồng. Đối với trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng tại khoản 1 của Điều 428 thì bên đơn phương chấm dứt hợp đồng không phải bồi thường thiệt hại. Và theo căn cứ tại khoản 5 của Điều luật, những trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng khác so với các trường hợp tại khoản 1 này thì được coi là vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan do không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng. Lúc đó được hiểu bên đơn phương chấm dứt hợp đồng không phải đang thực hiện quyền đơn phương của mình mà là bên vi phạm nghĩa vụ dân sự.
Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Đây là quy định bắt buộc, giống với hủy bỏ hợp đồng, theo đó bên đơn phương phải thông báo ngay cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng. Theo quy định này, việc chấm dứt hợp đồng do một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý kể cả khi có hoặc không có thông báo cho bên kia, việc không thông báo mà gây thiệt hại cho bên kia thì chỉ phải bồi thường chứ không làm ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng.
Thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm chấm dứt của hợp đồng. Khi hợp đồng chấm dứt, các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp, phần nghĩa vụ đã thực hiện vẫn có giá trị đổi với các bên, vì vậy bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán phần nghĩa vụ đã thực hiện.
Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt mà phát sinh thiệt hại thì bên có lỗi sẽ phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Thực tế cho thấy, bên có lỗi sẽ không thể là bên tuyên bố đơn phương. Bởi vì việc tuyên bố đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng là quyền của một bên trong hợp đồng, nên việc thực hiện quyền không thể coi là có lỗi.
5. Thời hiệu khởi kiện về tranh chấp hợp đồng
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 “Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
Theo Điều 429 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về thời hiệu khởi kiện hợp đồng như sau:
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực thì bên có quyền lợi bị xâm phạm biết hoặc phải biết hành vi vi phạm các điều khoản của hợp đồng và thời điểm biết hoặc phải biết là ngày bên có nghĩa vụ phải thực hiện mà không thực hiện nghĩa vụ hoặc có thực hiện nhưng thực hiện không đúng nghĩa vụ hoặc gây thiệt hại.
Trường hợp đã hết thời hạn thực hiện hợp đồng nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ theo hợp đồng thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là ngày hợp đồng hết thời hạn thực hiện.
Ngoài ra, “ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm ” có thể không phụ thuộc vào thời điểm kết thúc hợp đồng mà được diễn ra sau thời điểm đó, bởi lúc đó, bên có quyền yêu cầu mới biết được lợi ích của mình bị xâm phạm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp như vậy, việc chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của bên có quyền yêu cầu bị xâm phạm là rất khó khăn do yếu tố thời gian cũng như xác định trách nhiệm lỗi của bên vi phạm khi hợp đồng đã chấm dứt.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0191 hoặc gửi qua Email : Tư vấn pháp luật qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.
Trân trọng./.