Lời Nói Đầu

Thời cổ đại tranh luận đã từng lưu lại những trang sáng chói.
Trần Chuẩn nói rõ lí lẽ mà quân địch phải lui, Tô Tần du thuyết mà sáu nước được an, Thái Trạch chỉ dăm câu sắc sảo mà thừa tướng Phạm Thư chắp tay nhường chức, Gia Cát Lượng thiệt chiến quần nho mà Ngô – Thục kết liên minh, đánh cho quân Tào Tháo thất điên bát đảo.
Ngày nay, tranh luận lại càng toả sáng rực rỡ hơn.
Văn Nhất Đa(1) đối mặt với giặc mạnh mà đập bàn cao giọng, Chu ân Lai tranh luận ngoại giao mà vẫn vững trong cơn nguy, “cuộc tranh luận thế kỉ”, khiến người người kính nể…
Biết bao cuộc tranh luận đã thu hút và làm nức lòng mọi người! Thời kì đại chiến thế giới lần thứ hai, người Mĩ coi miệng lưỡi, bom nguyên tử, tiền vàng là ba thứ vũ khí để sinh tồn và cạnh tranh. Rồi khoa học đã thay thế cho sức mạnh vũ khí, thế nhưng địa vị bá chủ của miệng lưỡi vẫn giữ nguyên.
Bạn có muốn hô phong hoán vu trong sục sôi biển sóng của sự cạnh tranh xã hội ngày nay không? Bạn có muốn đánh bại quần hùng bằng ba tấc lưỡi trong các cuộc luận chiến không? Bạn có muốn dẽ dàng đại thắng trong đàm phán theo cách giấu kín mưu cơ lộ mũi tiên phong không ? Xin hãy đọc các bài này, hi vọng Phương pháp biện luật sẽ là thanh bảo kiếm lóe sáng trong tay bạn, trong các cuộc tranh luận !

.

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:  1900.0191

1 Thắng bằng Logic.

Biện luận có đường biên không tách rời với logic. Biện luận là cơ sở sinh ra logic, mầm mống đầu tiên của logic đã nảy nở trên mảnh đất biện luận. Ngược lại logic lại chính là mạch sống của biện luận, muốn biện luận có sức hấp dẫn tất phải có sức mạnh logic khuynh đảo.
Stalin từng nhận định về lời biện luận của Lê nin rằng: “Lúc đó, điều khiến tôi khâm phục chính là sức mạnh logic không thể chiến thắng nằm trong lời diễn thuyết của người. Sức mạnh logic này tuy có khô khan, nhưng nó lại tóm chặt lấy người nghe, từng bước từng bước làm xúc động, và cuối cùng thì cầm tù nguời nghe, không trừ một ai. Tôi còn nhớ, lúc đó rất nhiều đại biểu nói:
“Logic trong bài nói của Lê nin khác nào những xúc tu vạn năng, sẽ kẹp chặt lấy anh từ mọi phía bằng kìm, khiến anh không thể thoát khỏi. Nếu anh không đầu hàng, sẽ thất bại hoàn toàn.

2  Giữ cho đồng nhất

Giữ cho đồng nhất nghĩa là trong biện luận, tư tưởng của chúng ta phải có tính xác định và tính nhất quán đầu cuối.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự vật khách quan hàm chứa mâu thuẫn nội tại không ngừng hoạt động, phát triển và biến hóa. Thế nhưng trong một giai đoạn phát triển nhất định, sự vật khách quan lại có tính quy luật về chất đặc thù. Chính do tính quy luật về chất này của sự vật mà khiến cho các sự vật được phân biệt. Luật đồng nhất trong logic học chính là quy luật cơ bản của tư duy logic được hình thành từ tính quy định về chất của sự vật khách quan hàng trăm vạn lần phản ánh trong ý thức con người. Chúng ta muốn nhận thức sự vật khách quan và triển khai biện luận một cách chính xác thì phải tuân theo Luật đồng nhất, mà tính xác định và tính nhất quán đầu cuối của tư tưởng trong biện luận lại chính là yêu cầu cơ bản nhất của Luật đồng nhất đối với người biện luận.
Cụ thể là Luật đồng nhất đòi hỏi khái niệm dùng trong lời người biện luận phải giữ được đồng nhất. Hãy xem đoạn tranh luận sau:
Có một hôm A, B, C và D thấy thùng cứu hoá chỉ chứa cát tới mức một nửa. Thế là họ bắt đầu cãi nhau.
A – Thùng này rỗng thột nửa.
B – Thùng này chứa một nửa.
C – Thế thì có gì phải cãi nhau, thùng rồng thột nửa chẳng phải cũng như là thùng chứa một nửa đó sao ?
D – Không phải thế. Nếu xác lập đẳng thức: “thùng rỗng một nửa bằng thùng đựng một nửa” thì chúng ta có thể cùng nhân hai vế với 2. Thùng rỗng một nửa nhân 2 bằng hai thùng rỗng một nửa, và hai thùng rồng một nửa bằng một thùng rỗng. Còn thùng chứa một nửa nhân với hai thì bằng hai thùng chứa một nửa, và hai thùng chứa một nửa bằng một thùng chứa đầy. Thế là, chẳng phải một thùng trống rỗng bằng một thùng đựng đầy đó sao ?
Biện luận của D là sai, nguyên nhân là khái niệm “thùng rỗng một nửa” và “thùng đựng một nửa” đã không giữ được đồng nhất và đã bị đánh tráo hàm nghĩa trong đó. “Thùng rỗng một nửa” là chỉ thùng này một nửa rỗng một nửa đựng, “thùng đựng một nửa” chỉ thùng này có một nửa đựng một nửa rỗng. Thế mà D lại lần lượt đánh tráo thành “bộ phận nửa rỗng trong thùng” và “bộ phận nửa đầy trong thùng”, như vậy sẽ dẫn tới kết luận giả dối.
Luật đồng nhất còn đòi hỏi luận đề trong biện luận phải giữ được đồng nhất. Ví dụ, một đơn vị nọ mở cuộc tranh luận với chủ đề: “Thế nào là vẻ vang”, và đã có đoạn đối thoại như sau:
A – ôi dào, vẻ với chẳng vang. Tôi cho rằng có tiền thì vẻ vang, không tiền thì đừng nói đến vẻ vang, thật đơn giản. Có tiền mới làm được việc, không tiền thì chẳng làm được gì cả. Cậu cứ vào quầy hàng mà mua đi, thiếu một xu thì đừng có mà mua. Mà vào rạp xem phim, thiếu một hào cũng đừng nghĩ đến chuyên vào làm gì.
B – Lí do cậu nêu ra không nói lên được có tiền thì vẻ vang, chỉ nói lên các tác dụng của đồng tiền…
A – Tiền đương nhiên là có tác dụng rồi ! Có tiền thì sai khiến được cả ma quỷ kéo cối xay !
B – Cái đó tớ không đồng ý ! Trên thế giới làm gì có ma quỷ, vậy thì làm sao có thể nói tới việc sai ma quỷ kéo cối xay ?
A – Ai bảo không có ma? Nếu không có ma thì sao xưa nay trong nước ngoài nước bao người nói về ma ?
Điều mà họ tranh luận vốn là: “thế nào là vẻ vang” thế nhưng vấn đề tranh luận về sau lại chuyển sang “‘trên thế giới có ma hay không ?” Chuyển đề tài như vậy, đã dẫn tới không giữ được đồng nhất. Những kiểu tranh luận như vậy thường là lan man, như con ngựa sổng, kết quả là đi chệch xa đề tài. Và đó là điều mà Luật đồng nhất trong logic học không cho phép.

3. Khôn khéo đặt điều kiện

Giữa các sự vật khách quan vẫn tồn tại mối liên hệ điều kiện nhất định. Tách rời khỏi điều kiện nhất định, sự vật khách quan sẽ không thể tồn tại và phát triển. Thuật Khôn khéo đặt điều kiện là phương pháp dùng cách khéo léo đặt ra điều kiện nào đó. rồi về sau phán đoán biện luận đối với sự vật.
Trong biện luận, khi đối tượng đặt ra cho chúng ta những vấn đề gai góc mà nếu khẳng định hoặc phủ định một cách giản đơn đều rơi vào tình huống tiến thoái lưỡng nan. Lúc này, chi Cần khôn khéo đặt ra điều kiện nào đó là có thể biến hại thành lợi, chuyển nguy thành an. Ví dụ, trong cuộc tranh luận tại cuộc thi hùng biện quốc tế bằng Hoa ngữ lần một với chủ đề: No ấm là điều kiện tất yếu để nói tới đạo đức, số 3 của đội đại học Cambridge nước Anh bỗng nêu câu hỏi:
“Nếu bây giờ 10 người chúng tôi bỏ phiếu tán thành yêu cầu sung công tài sản của số 3 đội bạn để đáp ứng nhu cầu của mọi người thì như vậy có đúng không ?”
Câu hỏi này thực sự dồn người ta vào chỗ bí, vì nếu khẳng định một cách đơn giản thì rõ ràng không phù hợp với lẽ thường, còn nếu phủ định một cách đơn giản cũng lại làm lung lay luận chứng của mình. Thế nhưng số 3 của đội Phúc Đáp (trường đại học ở Thượng Hải) đã dùng thuật Khôn khéo đặt điều kiện để trả lời:
“Nếu tài sản của tôi sung công mà mang lại phúc lợi cho quảng đại dân chúng thì tôi nghĩ tôi lựa chọn cách này, bởi vì dã làm người phải làm người có đạo đức”. (vỗ tay)
Do đã khôn khéo đặt ra điều kiện mang lại phúc lợi cho quảng đại dân chúng mà đội Phúc Đáp không những đã trả miếng đối phương một cách hữu hiệu và còn tăng cường luận điểm của đội mình.
Trong những cuộc thi hùng biện, chúng ta thường phải đối mặt với những luận đề bất lợi và do đó càng cần phải dùng thuật Khôn khéo đặt điều kiện. Với điều kiện đã khôn khéo đặt ra, chúng ta có thể phát triển thuận lợi tránh cái khó khăn để triển khai biện luận, giành thế thượng phong. Ví dụ, trong cuộc thi hùng biện châu á lần thứ nhất (năm 1986), luận đề là: Phát triển ngành du lịch lợi nhiều hơn hại, đội phản bác là Đại học Sư phạm Bắc Kinh đối diện với đề khó này đã lật lại và đặt điều kiện: Nếu phát triển ngành du lịch một cách mù quáng, không kiểm soát và họ đã triển khai một cuộc tranh luận sinh động, khiến mọi người phải đồng ý với kết luận: hại nhiều hơn lợi. Đại biểu đội Trường đại học Sư phạm Bắc Kinh biện luận như sau:
“Nếu cứ phát triển ngành du lịch một cách mù quáng, thiếu kiểm soát sẽ dẫn việc chào mời du khách bằng mọi thủ đoạn. Nhiều quốc gia đã chào mời du khách không phải bằng phong cảnh tươi dẹp và những hàng hóa rẻ của họ, mà khách của họ ngày càng tăng chủ yếu do hoạt động Sex. Ngành du tịch ở áo Môn phát đạt, nhưng đó là do họ đã đáp ứng khách da đen bằng cách cho số người này thưởng ngoạn “non xanh nước biếc” trên chiếu bạc. Đương nhiên, ở đây chúng ta không đánh dấu bằng giữa ngành du lịch với ngành Sex và cờ bạc. Về mặt này có thể nói Singapo là một điển hình. Thế nhưng những điển hình như vậy quá ít, mà những và dù thất bại lại quá nhiều. Cờ bạc, tình dục rất dễ lan tràn như tế bào ung thật. Sòng bạc dân Đỉnh của Malaixia, hộp đêm của Thái Lan chẳng nổi tiếng thế giới đó sao ? Nếu cứ cái đà như vậy. mà nói Phát triển ngành du lịch lợi nhiều hơn hại chẳng hóa ra nói: Phát triển hoạt động tình dục và cờ bạc lợi nhiều hơn hại đó sao ?”
Đòn tấn công này của đội Trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh quả là lợi hại, trên cơ sở đặt ra điều kiện nhất định họ nêu ra một loạt ví dụ mà mọi người đều biết và họ đã củng cố và làm phong phú thêm quan điểm của mình từ nhiều góc độ. Cuối cùng thì đội Đại học Sư phạm Bắc Kinh đã đánh gục đội Đại học Văn khoa Đài Loan, giành thắng lợi tuyệt đối.
Thuật Khôn khéo đặt điều kiện là một cách biện luận mạnh mẽ, chúng ta muốn sử dụng nó một cách linh hoạt thành thạo thì phải nắm chắc mối liên hệ điều kiện tất yếu giữa các sự vật và dựa vào mối liên hệ điều kiện này mà khéo léo đặt ra điều kiện nào đó. Ví dụ, Tiết mục thanh niên của Đài truyền hình Trung ương (Trung Quốc) đã mở cuộc thi tuyển người phụ trách, cuộc thi có luận đề: Trên đường Nam Kinh giầy ai đi lớn nhất ? Sáu người dự tuyển đều tịt mít. Trong khi đó, một anh bộ đội ở hàng ghế khán giả đã trả lời như sau:
“Chân ai to nhất thì giày người đó đi to nhất.”
Kết quả, câu trả lời này được giám khảo khẳng định. Anh bộ đội do nắm chắc mối liên hệ điều kiện lớn nhỏ giữa giày và chân, đã khéo léo đặt điều kiện và đã đưa ra đáp án đúng.
Thuật Khôn khéo đặt điều kiện trên thực tế là sự vận dụng mệnh đề điều kiện trong biện luận. Ví dụ: Chân ai lớn nhất thì giày người đó đi là to nhất chính là mệnh đề điều kiện. Trong đó, bộ phận biểu thị điều kiện là điều kiện nêu ra ở trước (chân ai lớn nhất). Bộ phận kết quả sinh ra do dựa vào điều kiện nào đó gọi là điều kiện nêu ra ở sau (giày người đó đi là to nhất). Hình thức biện luận chính xác đòi hỏi mệnh đề điều kiện dùng đến phải đúng đắn, tức là có điều kiện nêu ra ở trước (tiền kiện) thì nhất định phải có điều kiện nêu ra ở sau (hậu kiện). Điều kiện đầy đủ, kết quả tất phải xuất hiện. Nếu điều kiện đầy đủ mà kết quả không xuất hiện, thì mệnh đề đó là giả dối.
Ví dụ
“Nếu chim khách kêu thì có tin vui”.
Do tồn tại tình trạng chim khách kêu mà không có tin vui, mà mệnh đề điều kiện này là giả dối. Trong biện luận, khi chúng ta cần phản bác một mệnh đề điều kiện giả dối, chỉ cần chỉ ra tình trạng tiền kiện thì thật mà hậu kiện là giả thì đánh đổ được mệnh đề này.

4. Điều Kiện Luôn đúng

Mệnh đề điều kiện có một đặc tính kì lạ là khi điều kiện nêu trước (tiền kiện) là giả thì dù điều kiện nêu sau (hậu kiện) có là thật hay là giả thì toàn bộ mệnh đề điều kiện cũng nhất định là thật. Phương pháp biện luận dựa trên đặc tính này của mệnh đề điều kiện chúng ta gọi là thuật Điều kiện luôn luôn đúng.
Ví dụ, có một năm Hồng Kông thi hoa hậu. Cuộc thi bước vào chung kết và người chủ trì muốn thử tài ứng đối của cô Dương, ông đề ra câu hỏi:
Xin hỏi cô Dương, nếu cô phải chọn trong hai người bạn nam một người bạn đời thì cô sự chọn ai ?. Hai người này, một là nhà soạn nhạc Ba Lan: Sôpanh, một là trùm phát xít: Hítle. “
Thật bất ngờ, cô Dương thông minh xinh đẹp đã trả lời như sau:
“Tôi sẽ lấy Hítle ! “
Quan khách bỗng xao động hắn lên, dồn dập hỏi: Tại sao cô lại chọn Hítle ? Cô Dương mỉm cười trả lời:
“Tôi hi vọng minh sự câm hóa được Hitle. Nếu tôi lấy Hítle, thi đại chiến thế giới lần thứ hai không chết nhiều người như vậy, cũng có thể đảm bảo không để Hítle phát động Đại chiến hai ! “
Cô Dương biết chắc rằng Sôpanh và Hítle đều là những nhân vật lịch sử, dù muốn lấy. ai cũng không thể được, và là giả dối. Vì điều kiện là giả, cho nên cô ta có thể tùy ý chọn lựa mà không cần phải thực hiện ý định này. Trả lời là lấy Sôpanh thì quá bình thường, trả lời là lấy Hít le mới là điều lạ. Và với sự giải thích khéo léo, cô đã giành được tràng vỗ tay cuồng nhiệt của quan khách.
Trong biện luận, chúng ta phải phân tích các điều kiện hữu quan là thật hay là giả. Nếu điều kiện là thật, thì phải suy nghĩ thận trọng. Nếu điều kiện là giả, thì có thể trả lời ấy ý, dù rằng có đưa ra hậu kiện vớ vẩn thế nào đi nữa thì toàn bộ mệnh đề vẫn xác lập và đánh bại được đối phương.
Chúng ta xem tiếp một ví dụ nữa, ngày 27 tháng 8 năm 1993 tại Singapo đã tổ chức một cuộc thi hùng biện quốc tế lần thứ nhất với đề tài AIDS là vấn đề y học không phải là vấn đề xã hội. Có đoạn tranh luận như sau:
Số 3 của đội Sidney: “vậy tôi xin hỏi đội bạn, nếu ngày nay chúng ta phát minh ra một loại vác xin phòng chống AIDS, thì có vấn đề xã hội không ? Xin hãy cho biết. “
Số 2 của đội Phúc Đáp: “Nếu đặt một ví dụ cả Pa ri có thể đút vào trong chai, nếu cả loài người không tồn tại thì bệnh AIDS còn có nữa không ?” (vỗ tay).
Điều kiện mà số 3 của đội Sidney nêu ra là: “ngày nay phát minh ra được một loại vác xin phòng chống được AIDS”. Điều kiện này hiển nhiên là giả, và số 2 của đội Phúc Đáp vì vậy đã đưa ra hậu kiện vớ vẩn là “Cả Pa ri có thể đút lọt vào trong một cái chai”. Đương nhiên có thể vì thế mà tùy ý nêu ra hậu kiện, từ đó mà tạo thành một mệnh đề Điều kiện luôn luôn đúng không ai phản bác được và bởi vậy mà đánh gục đối thủ. Đội Phúc Đáp đã khéo léo vận dụng thuật Điều kiện luôn luôn đúng mà đã trả lời được một cách thú vị, tỏ rõ tài năng ứng đối biện luận siêu việt.
Điều kiện luôn luôn đúng nói đến ở đây chính là quái luận hàm chứa trong logic hiện đại. Hàm nghĩa của quái luận hàm chứa là: Khi tiền kiện của mệnh đề điều kiện là giả, hậu kiện dù thật hay giả thì cả mệnh đề điều kiện đều là đúng, hoặc là nói, từ một tiền đề giả dối có thể suy ra bất kì một kết luận nào. Đặc tính này của mệnh đề điều kiện nhiều người đã không hiểu, thậm chí còn bị nhiều nhà logic học chỉ trích, bởi vậy mọi người mới gọi là quái luận. Nhưng dù vậy, nó chắc chắn vẫn là định lí logic khoa học, chúng ta vẫn có thể vận dụng nó trong tranh luận, và vẫn có thể tạo nên hiệu quả bất ngờ hạ gục đối phương. Các ví dụ đã nêu trong bài là chứng minh cho điều này.

5. Tách biệt điều kiện

Thuật Tách biệt điều kiện là phương pháp biện luận thông qua việc khẳng định tiền kiện của mệnh đề điều kiện từ đó mà rút ra kết luận khẳng định hậu kiện.
Thời nhà Thanh, có hôm vua Càn Long hỏi Kỉ Hiểu Lam: “Kỉ khanh, hai chữ trung hiếu giải thích thế nào? “Kỉ Hiểu Lam trả lời: ” Vua bắt tôi chết, tôi không thể không chết tà trung. Cha bắt con chết, con không thể không chết là hiếu”.
Càn Long bèn nói: “Vậy thì được, trẫm muốn khanh chết bây giờ !”
“Thần linh chỉ”.
“Vậy khanh định chết cách nào ?” Vua hỏi.
“Nhảy xuống sông”.
Càn Long đương nhiên biết là Kỉ Hiểu Lam sẽ không đi trầm mình, và thế là lặng lẽ quan sát cách ứng biến. Lát sau, Kỉ Hiểu Lam quay về, đến trước Càn Long. Vua cười hỏi: “Kỉ khanh sao chưa chết ?”
Kỉ Hiểu Lam trả lời: “Thần đến bờ sông, khi định nhảy xuống thì thấy Khuất Nguyên đi đến. ông ta nói: “Hiểu Lam, ông làm cái việc sai to rồi ! Tưởng chỉ có Sở Vương năm nào ngu muội, ta một không thể không chết. Trước khi ông nhảy xuống sông, hãy về hỏi nhà vua có phải là hôn quân không. Nếu hoàng thượng không phải tà hôn quân, thì ông không cần phải trầm mình. Nếu hoàng thượng ngu muội như Sở Vương năm nao, ông hẵng tìm đến cái chết cũng không muộn!”
Càn Long nghe xong cả cười, luôn miệng khen: “Giỏi, thật là một cái lưỡi sắc sảo không hổ danh là nhà hùng biện. Trẫm phục ngươi đấy ! “
Kỉ Hiểu Lam sở dĩ thoát khỏi cái chết là do đã dùng thuật Tách biệt điều kiện:
Nếu không phải thờ hôn quân thi không được trầm mình.
Càn Long không phải là hôn quân.
Cho nên ta không thể trầm mình.
Kỉ Hiểu Lam đã lấy mệnh đề điều kiện làm tiền đề, qua việc khẳng định tiền kiện của mệnh đề điều kiện này mà có được kết luận khẳng định hậu kiện.
Một mệnh đề điều kiện chân thực đã có tiền kiện thì phải có hậu kiện. Đoán định tiền kiện tồn tại thì tất nhiên sẽ có được kết luận khẳng định hậu kiện tồn tại. Do đó mà thuật Tách biệt điều kiện có sức mạnh hùng biện không thể phản bác nổi. Một ví dụ khác:
án Tử(1) đi sứ sang nước Sở, Vua Sở thấy án Tử thấp bé liền châm chọc:
“Nước Tề lẽ nào không có người cao to tài cán ? Sao lại phái con người bé nhỏ bất tài như người đi sứ ? “
án Tử cười mà rằng: “Người cao to tài cán ở nước Tề nhiều vô kể. Thế nhưng, theo lệ ở nước tôi, củ loại người nào đi sứ nước nào là có quy định nghiêm ngặt. Người cao to tài giỏi thì cử đi sứ nước giàu mạnh. Người nhỏ bé bất tài thì phải đi sứ nước hèn kém. án Anh tôi là người nhỏ bé bắt tài bởi vậy bị phái đi sứ nước Sở”.
Sở Vương định làm nhục án Anh thấp lùn, từ đó để đạt mục đích làm nhục nước Tề thấp kém. Thế nhưng, bằng việc đối đáp khôn khéo, án Anh đã khiến Sở Vương tiu nghỉu.
Cũng vậy, ở đây ta thấy án Tử đã sử dụng thuật Tách biệt điều kiện. Sử dụng thuật Tách biệt điều kiện cần chú ý:
1. Mệnh đề điều kiện ở tiền đề phải chân thực.
2. Chỉ có thể sử dụng hình thức từ khẳng định tiền kiện đi tới khẳng định
hậu kiện, mà không thể dùng hình thức đi từ khẳng định hậu kiện tới khẳng
định tiền kiện.

6. Điều Kiện Liên hoan

Giữa các sự vật khách quan thường tồn tại mối liên hệ điều kiện phức tạp liên hoàn (móc xích với nhau). Trong biện luận, lợi dụng mối liên hệ điều kiện liên hoàn này, ta có thể từng bước đi sâu vạch rõ mối liên hệ tất nhiên giữa các sự vật và xâu chuỗi cả quá trình biện luận từ đầu đến cuối, nhằm làm cho lời biện luận của chúng ta có tính logic chặt chẽ và sức thuyết phục mạnh mẽ.
Theo Hàn Phi Tử – Dụ lão thì có lần vua Trụ bắt người ta phải làm một đôi đũa bằng ngà voi. Cơ Tử thấy vậy buồn bực và lo lắng. ông nói:
“Nếu có đũa ngà thì chẳng còn cần đến đồ gốm nữa, mà dùng chén ngọc. Đũa ngà và chén ngọc không phải tà dùng để đựng hay gắp rau đậu, mà là để dùng với thức ăn như thịt bò Tây Tạng, bào thai báo. Mà dùng những loại thực phẩm này thì tất không thể mặc áo vải cộc và vào ăn trong lều tranh được Phải là mặc áo gấm, ở nhà lầu sang trọng. Và như vậy, muốn được những cái đó thì phải vắt kiệt sức dân may ra mới có. Hậu quả việc này không thể không sợ ! “
Năm năm sau, với cung cách ăn chơi phè phỡn này cùng với hình phạt tàn bạo mà Trụ bị diệt.
Ta thấy, Cơ Tử do nắm chắc mối liên hệ điều kiện móc xích giữa các sự vật mà đã nhìn xa trông rộng, từ đôi đũa ngà mà biết được cái họa của thiên hạ. Người biết dùng thuật Điều kiện liên hoàn thường tỏ rõ tài trí khác người.
Dùng thuật Điều kiện liên hoàn có thể từ việc khẳng định tiền kiện của mệnh đề điều kiện thứ nhất trong mệnh đề liên hoàn mà có được kết luận khẳng ‘định hậu kiện của mệnh đề điều kiện cuối cùng. Đây chính là cách tách biệt móc xích. Chúng ta cũng có thể tả việc phủ định hậu kiện của mệnh đề điều kiện cuối cùng mà có được kết luận phủ định tiền kiện của mệnh đề điều kiện đầu tiên. Và đây chính là phép chối bỏ liên hoàn. Chúng ta hãy quan sát đoạn biện luận sau:
Vào thời nhà Minh, Nam Xương Ninh Vương Chu Thần Hào tự thị là hoàng tộc, suốt ngày chỉ biết ăn chơi. Nhà vua cho ông ta một con hạc trắng, trên cổ treo tấm biển đồng mạ vàng có chữ “ngự tứ” (nghĩa là vua ban). ông ta từ đó thường dắt con hạc này dạo phố. Có một hôm, con hạc tự mình chạy ra phố và bị chó cắn chết. Chu Thần Hào vô cùng tức tối: “Con hạc này vua ban cho ta, trên cổ có biến vàng “ngữ tứ”. Chó nhà ai dám khi quân phạm thượng, gớm thật ! “. Rồi lệnh cho gia nô trói chủ nhân con chó kia, giao cho tri phủ Nam Xương trị tội, bắt đền mạng.
Thời đó tri phủ Nam Xương là Chúc Hạn. Chúc từ lâu đã bất bình với thói lộng hành của phủ Ninh Vương, lần này nghe thấy quân gia phủ Ninh Vương đòi người dân phải đền mạng vì con hạc trắng, với tội danh là khi quân phạm thượng, thì vừa bực vừa buồn cười mà rằng: “án này để giao cho ta xử, vậy thì cứ theo phép công, xin hay viết đơn kiện đi”. Quản gia nén giận viết đơn dâng lên.
Chúc Hạn nhận đơn liền sai nha dịch đi bắt hung phạm. Quản gia vội nói: “Người thì đã bắt, hiện ở dưới kia !”. Chúc Hạn giả đò kinh ngạc: “Trong đơn rõ ràng viết hung phạm là một con chó, bản phủ hôm nay xử chó, ông bắt người đến làm gì? “. Quản gia tức tối nói: “Con chó kia không nói tiếng người, sao lại có thế đưa ra tòa để xét hỏi ?”. Chúc Hạn cười mà rằng: ông quản gia không nên giận, ta nghĩ chỉ cần đưa tờ đơn kiện đến trước mặt con chó, nó xem xong cúi đầu nhận tội thì cũng có thế định án được rồi”. Quản gia dậm chân: “ông là hôn quan, trên trời này con chó nào lại biết đọc hả?”.Lúc này Chúc Hạn mới nghiêm giọng bác: “Chó đã không biết chữ thì làm sao hiểu được hai chữ “ngự tứ” trên biển vàng ? Mà đã không đọc được chữ trên cổ con hạc thì làm sao định được tội khi quân phạm thượng đây ? Chó đã không khi quân phạm thượng, thì sao có thể bảo chủ nhân của nó là khi quân phạm thượng được. Chó là con thú không hiểu tình lí, cắn chết con hạc thì đó là việc của loài cầm thú. Sao lại liên lụy đến người dân được ?”
Chúc Hạn khi phản bác người quản gia nọ đã dùng phép tách biệt liên hoàn, tạo nên một nhóm mệnh đề liên hoàn điều kiện đi từ khẳng định tiền kiện “chó không biết chữ” thuộc mệnh đề điều kiện thứ nhất tới được kết luận khẳng định hậu kiện” người chủ của con chó không khi quân phạm thượng” ở mệnh đề điều kiện sau cùng. ở đây ta thấy logic chặt chê, không thể bắt bẻ, khiến cho quản gia không còn lí lẽ gì nữa, đành ngậm miệng, tức tối phẩy tay quay gót trở ra.

7. Điều Kiện tất yếu

Hàm nghĩa của Điều kiện tất yếu là: điều kiện không đầy đủ thì kết quả không xuất hiện. Ngược lại, nếu có tình trạng điều kiện không đầy đủ mà kết quả vẫn xuất hiện, thì mệnh đề điều kiện tất yếu này là giả dối. Trong một số trường hợp biện luận, chúng ta chỉ có thể giành được thắng lợi nếu nắm chắc mối liên hệ logic của mệnh đề điều kiện tất yếu. Ví dụ:
Tại cuộc thi hùng biện quốc tế lần thứ nhất bằng Hoa ngữ có một luận đề là: “ấm no là điều kiện tất yếu bàn tới đạo đức”. Trên thực tế, đây là một mệnh đề điều kiện. Nó có hàm ý là:
“Con người chỉ khi đạt được mức sống ấm no mới có thể nói tới đạo đức được”.
Thế nhưng, đội đại biểu đại học Phúc Đáp đã phản bác mệnh đề này. Và họ đã phải chỉ ra sự tồn tại trường hợp không no ấm cũng có thể nói tới đạo đức Biện luận của họ như sau:
“Từ xưa đến nay, những xã hội chưa giải quyết được vấn đề khó khăn về ăn mặc thực tế là có nhiều. Song như vậy, phải chăng ở đó đều không thể nói tới đạo đức được sao ? Ngày nay, đất nước Xô-ma-li ăn đói mặc rách thì khôngcó quyền bàn tới đạo đức sao ?… Từ góc độ cá nhân, những ví dụ về hiện tượng nghèo đói nhưng vẫn giữ được phẩm chất đạo đức là nhiều không kể xiết Nhan Hồi, một học trò xuất sắc của Không Tử, chẳng phải ăn uống đói khát mà vẫn nói lời ngay làm việc thiện đó sao ? Khi túp lều tranh của Đỗ Phủ bị gió thu phá nát, chẳng phải ông vẫn mơ tưởng có được ngôi nhà rộng ngàn vạn gian để che cho các hàn sĩ trong thiên hạ đó sao ? Nói tới chính phủ thì Singapo chẳng cũng khởi đầu gian nan đó sao ? Nhưng ngài Lí Quang Diệu đã khuyến cáo nhân dân ông: Chúng ta chẳng có gì hết, ngoài bản thân mình. Và ông đã nhấn mạnh đạo đức là nhân tố trọng yếu để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh… “
Trên cơ sở nêu ra hàng loạt sự thật để tiến hành phản bác, đội Phúc Đáp còn phân tích một cách sâu sắc hàm ý logic của chủ đề tranh luận. Cụ thể như sau:
“Gọi là “điều kiện tất yếu”, thế mà nhìn từ phương diện logic ta lại thấy nó có cũng được mà không cũng được. Quả vậy, với chủ đề tranh luận hôm nay, chúng tôi mới chỉ cần chúng minh không no ấn cũng có thế nói tới đạo đức. Mà điều đội bạn phải chứng minh là không no ấm thì đừng có nói tới đạo đúc về điểm này số một đội bạn lại chưa chứng minh đầy đủ được”.
Bên phía phản bác đã luận chứng một cách chặt chẽ, có logic, không thể không thừa nhận. Và đã giành được tràng vỗ tay vang dội của quần chúng.
Đội phản bác của đại học Phúc Đáp sở dĩ đã chiến thắng trong cuộc tranh luận này là do biết rõ mối liên hệ logic trong chủ đề tranh luận là một nhân tố cực kì quan trọng.

8. Lựa chọn giả thiết

Mệnh đề chọn lựa là mệnh đề nêu ra những tình huống có thể để từ đó lựa chọn. Cách thức hàng phục đối phương, khéo léo giành thắng lợi bằng việc vận dụng mệnh đề chọn lựa trong biện luận chính là thuật Lụa chọn giả thiết.
Trong cuốn Kí viên kí sở kí (đời Thanh) còn ghi lại một vụ án như sau:
Một cô gái chưa chồng và có chàng trai muốn lấy cô ta, nhưng đã bị ông bố cô gái từ chối. Thế là chàng trai nọ đã vu cáo rằng anh ta đã lấy cô gái này làm vợ và bố cô gái lại ép cô tái giá. Quan huyện Vương Lâm Hanh đòi cô gái đến hỏi chuyện, rồi đột ngột hỏi chàng trai:
“Ngươi đã là chồng cô này, vậy hay nói trên tay cô ta có một cái sẹo, và sẹo ở tay mặt hay tay trái ?”
Chàng trai cứng họng, không trả lời được.
Viên quan kia đã nêu ra hai tình huống có thể cho chàng trai chọn lựa: “Cô gái này tay trái có sẹo hay là tay phải có sẹo”. Nếu đây đúng là vợ anh ta thì anh ta phải biết tình trạng vết sẹo Lúc này, chàng trai lúng lúng không biết, đương nhiên lộ ra cô gái không phải là vợ anh chàng. Quan huyện đã khéo dùng mệnh đề chọn lựa để vạch trằn ngay âm mưu chiếm đoạt cô gái của chàng trai.
Muốn có được hiệu quả biện luận theo dự định bằng thuật Lựa chọn giả thiết thì phải biết phát hiện mâu thuẫn của đối phương, rồi nhằm vào mâu thuẫn đó mà đặt ra mệnh đề chọn lựa thích hợp. Như vậy, sẽ có thể đẩy đối phương vào chỗ lúng túng. Chẳng hạn Mi-ken-lăng một họa sĩ tài danh người ý thời Phục Hưng, ông đã nhận lời tòa thánh La Mã vẽ một bức sơn dầu: A-đam và ê-va, và ông đã có ý nêu câu hỏi:
“A-đam có rốn không ? “
Câu hỏi này đã bao hàm một mệnh đề chọn lựa: “A-đam có rốn hay A-đam không có rốn”, buộc đối phương phải chọn lựa từ đó. Theo Thánh kinh thì Chúa Trời nặn ra A-đam theo hình dáng của mình và lại rút của A-đam một cái xương sườn để tạo ra ê-va. Rồi từ đôi nam nữ đầu tiên này đã sinh ra chúng sinh đông đúc ngày nay. A-đam là con người có sớm nhất và hoàn mĩ nhất. Chúng ta ai cũng có rốn, bởi vậy A-đam cũng phải cố. Thế nhưng, A-đam lại là hình dáng của Chúa Trời, A-đam có rốn, bởi vậy Chúa Trời cũng phải có rốn. Chúa trời là đấng sáng tạo tối cao, lẽ nào ông ta còn bị cái gì đó sáng tạo và thai nghén ? Nếu Chúa Trời không có rốn mà A-đam có thì rõ ràng Chúa đã không nặn ra giống như mình. Và điều này đi ngược với Thánh kinh. Nếu cái rốn của A-đam là một sai lầm của Chúa trong sáng tạo, thì điểm này đi ngược với giáo nghĩa. Giáo nghĩa cho rằng Chúa Trời không bao giờ có sai lầm. Nếu A-đam không có rốn, thì là chúng ta ai cũng có mà A-đam lại không. Vậy là sáng tạo của Chúa cũng chẳng phải là hoàn thiện, và A-đam không phải là con người hoàn mĩ. Tóm lại, dù rằng A-đam có rốn hay không đều khiến cho giáo hội phải rơi vào hoàn cảnh mâu thuẫn khó bề thoát ra.
Như vậy, Mi-ken-lăng đã khéo dùng mệnh đề chọn lựa bắn trúng ngay vào chỗ hiểm yếu nhất của người khác.

9. Mượn lời để đáp lời

Trong một số trường hợp tranh luận, người biện luận không tranh biện với đối phương bằng trực tiếp lời của mình mà mượn lời người khác để trả lời. Đó là thuật Mượn lời đề đáp lời.
Thuật Mượn lời để đáp lời thường biểu hiện bằng việc lấy chính ngay lời của đối phương để phản kích. Điều này, tương tự như cướp súng giặc để giết giặc. Chẳng hạn, một kĩ sư bị chèn ép ngay ở đơn vị mình công tác và đã đề nghị chuyển đổi. Người phụ trách đơn vị không những không tìm nguyên nhân từ phía mình mà lại còn nói một cách dõng dặc:
“Đi thì cứ đi, vắng anh thì chợ vẫn. đông mà !”
Lúc này, người kĩ, sư hỏi vặn lại:
“Đúng vậy, vắng tôi thì chợ vẫn đông. Nhưng xin hỏi: Vắng anh thì chợ có đông không ?”
Câu hỏi này rất khéo, vắng tôi chợ vẫn đông thì vắng anh chợ vẫn đông. Vắng bất kì một người nào đó thì chợ vẫn đông. Và như vậy, cái vũ khí công kích của đối phương: vắng anh chợ vẫn đông đã tỏ ra không có ý nghĩa, khác gì một câu vô giá trị. ở đây, anh kĩ sư đã khéo dùng chính ngay câu của đối phương để đánh ngay vào điểm yếu của họ.
Muốn đùng thuật Mượn lời để đáp lời cho hay thì phải biết nắm bất lấy lời mà đối phương dẫn dụng để dùng lại. Lại ví dụ:
Tại một thành phố của Tiệp có ba anh em trẻ tuổi làm nghề buôn. Có lần họ sắp sửa đi buôn một chuyến thật xa, liền giao tiền cho một người nông dân thật thà giữ, và còn nói rõ: chỉ khi nào cả ba anh em cùng đến lấy tiền thì mới được trao.
Sau đó họ đã đi xa làm ăn buôn bán rồi lại lần lượt quay về nhà. Thế nhưng cậu ba đến nhà người nông dân trước, cậu ta giở đủ mọi cách để rút tiền rồi biến mất. Cậu cả, cậu hai biết được thì rất tức, và kiện ra tòa. Tòa án xử người nông dân phải bồi thường, nếu không sẽ tịch biên toàn bộ gia sản để thế nợ. Người nông dân rất buồn bực. Rồi đó, cố một người láng giềng biết sự việc bèn nói: “Anh không nên sợ hãi, tôi sẽ đến tòa cãi cho”.
Và thế là người nông dân và anh em nhà lái buôn đều dẫn người biện hộ của mình ra tòa. Luật sư của cánh lái buôn cứ bíu lấy giao ước ban đầu, kiên trì bắt nông dân phải bồi thường. Lúc này, người cãi cho nông dân mới đứng dậy nói:
“Thưa quý toà, tiền của anh em lái buôn nằm trong túi người nông dân, anh ta có thể lập tức trả cho họ; có điều giữa họ với nhau đã có giao ước: chỉ khi ba anh em lái buôn cùng đến thì mới giao tiền. Thế này nhé, để cho ba anh em họ cùng đến, và họ có thế cùng rút tiền về”.
Lúc này quan tòa yêu cầu cậu cả, cậu hai đi tìm cậu ba. Thế nhưng cậu ba đã mất hút, và hai anh em nhà nọ đành thất vọng.
ở đây ta thấy người láng giềng của người nông dân đã mượn chính lời của đối phương: Chỉ khi có ba người cũng đến mới được giao tiền Thế nhưng giờ chỉ có hai, thì đương nhiên không thể giao tiền cho họ. Như vậy, rốt cuộc người nông dân đã thắng kiện. Trong trường hợp này, khéo mượn luận đề của đối phương để phản bác là một phương pháp chiến thắng đẹp mắt.

10. Phụ định cố tình

Trong tranh luận, để phản kích lại sự khiêu chiến ào ạt của đối phương, ta có thể bằng những lời lẽ mạnh mẽ để phủ định cái vẻ ngoài. Như vậy, vừa có thể làm cho lời biện của chúng ta không kém vẻ hấp dẫn mà lại có thể chứng tỏ chúng ta không phải loại thô lỗ hung hăng như họ. Và như vậy, có thể có hiệu quả tranh luận cao. Chẳng hạn:
Năm 1984, trong cuộc tranh luận công khai trên truyền hình của các ứng cử viên tổng thống Mĩ, Mông-te tự thị trẻ trung uyên bác đã ra sức công kích Ri-gân già lão không thích hợp với gánh nặng của công việc tổng thống. Ri-gân là người lớn tuổi, nếu cứ đối đáp từng lời rồi chửi bới thì sẽ mất đi vẻ người lớn tuổi trầm tĩnh, tính toán sâu xa. Nhưng nếu cứ để mặc, giả câm giả điếc thì trước Mông-te hừng hực khí thế tuổi trẻ sẽ tỏ ra già yếu bất lực. Và thế là Ri-gân dựa vào sở trường của mình và khai thác điểm yếu của đối phương mà dùng hình thức Phủ định cố tình. ông ta mỉm cười trả lời:
“Mông-te bảo tôi già lão yếu đuối, tôi thì tôi sẽ không khai thác mặt yếu của đối thủ trong cuộc tranh cử này ở chỗ trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm”.
Lời đáp của Ri-gân đã được mọi người vỗ tay tán thưởng và cuối cùng đã thu được hầu hết phiếu bầu của cử tri.
Chúng ta giả tưởng, nếu lời đáp của Ri-gân là: anh nói tôi tuổi cao, sức lực suy giảm. Vậy thì anh trẻ tuổi, không chín chắn. Như vậy, sẽ đưa đến việc hai bên cai cọ, gây ấn tượng rất xấu cho mọi người. Thế nhưng Ri-gân đã không nói như vậy, mà dùng thuật Phủ định cố tình, điềm tĩnh lấy cái sở trường của mình làm bộc lộ cái yếu của đối phương. Như vậy, vừa biểu lộ mình là người lớn tuổi túc trí đa mưu và đại lượng, lại vừa đánh trả và phơi bày sự nông nổi và hẹp hòi của đối phương, và đã tạo nên một hình tượng nhân cách sáng chói của mình trước công chúng.
Thuật Phủ định cố tình và trường hợp: ở đây có 300 lạng bạc có những điểm giống nhau, đều là phủ định một sự thực dễ thấy. Thế nhưng, hiệu quả của chúng lại khác nhau. ở đây có 300 lạng bạc trong sự che đậy cố tình mà tỏ ra hoang đường và ngu xuân. Còn thuật Phủ định cố tình thì từ phủ định bề ngoài đã biểu lộ trí tuệ và tài năng một con người. Lại ví dụ:
Trong một cuộc đàm phán ngoại thương vào cuối những năm 70, đại diện ngoại thương phía Trung Quốc đã cự tuyệt yêu cầu vô lí của một thương gia tóc đỏ phương Tây. Vị này từ xấu hổ mà phát khừng, mở miệng xúc phạm người khác:
“ông đại diện, tôi thấy da ông đã vàng rồi đấy, có lẽ ăn uống không tốt mà suy nghĩ của ông không sáng suốt chăng ?”
Đại diện phía Trung Quốc lập tức trả miếng:
“Ngài giám đốc, tôi đã không vì lí do ông da trắng mà nói ông mất máu nghiêm trọng, khiến nếp nghĩ rối loạn. Cũng không vì lí do ông tóc đỏ mà nói ông hút cạn máu người khác, khiến đầu óc ông hôn mê”.
Đại diện phương Tây trong trường hợp bị cự tuyệt vì yêu cầu vô lí mà chuyển sang công kích nhân thân (con người) đại diện Trung Quốc, rõ ràng là ngang ngược vô lễ. Thế nhưng phía Trung Quốc lại dùng thuật Phủ định cố tình, thêm vào phía trước tù phủ định: không, vừa phản kích lại sự khiêu khích của đối phương một cách biểu hiện, lại cung chẳng có cớ để người ta chê cười, và đã bảo vệ được sự tôn nghiêm của bên Trung Quốc.

11. Tránh trả lời câu hỏi

Trong tranh luận, trước một số câu hỏi mà đối phương nêu ra, chúng ta thấy khó trả lời hoặc không muốn trả lời hoặc cũng có thể không tiện trả lời, thì chúng ta phải bằng những cách khôn khéo để né tránh. Đây là thuật Tránh trả lời câu hỏi.
Thuật Tránh trả lời câu hỏi thường dùng trong những trường hợp sau: Với những vấn đề chưa chuẩn bị đầy đủ hoặc khó trả lời, thì phải dùng thuật Tránh trả lời câu hỏi. Chẳng hạn, với luận đề “AIDS là vấn đề y học, không phải vấn đề xã hội ” trong cuộc thi hùng biện quốc tế bằng Hoa ngữ, có một hiệp như sau:
Số 4 bên bảo vệ: Chúng tôi đã nói, AIDS về mặt y học là chứng bệnh nan y Thế nhưng hiện nay, rất nhiều chứng bệnh nan y không phải là giải quyết bằng giác độ y học đó sao ?
Số 4 bên phản bác: Một bà cụ bị xe húc ngã, xin hỏi đây là vấn đề cứu người hay vấn đề đâm người ?
Số 2 bên bảo vệ: Đó không phải là bệnh ! (tiếng cười)
Số 2 bên phản bác: Thế nhưng bà cụ chẳng phải là đi bệnh viện đó sao ? Là vấn đề y học phải không ? Không, đó là sự cố giao thông ! (tiếng cười)
Số 4 bên bảo vệ: Thế nhưng lại có hàng trăm hàng ngàn nhân viên y tế đang chăm sóc bà cụ phải không ? Sự nghiên cứu về AIDS cũng cần đến hàng trăm hàng ngàn nhân viên công tác, nhân viên y tế.
Số 3 bên phản biện: Một người mắc bệnh không phải là vấn đề xã hội, hàng trăm hàng ngàn người mắc AIDS lẽ nào không phải là vấn đề xã hội ?
Số 4 bên bảo vệ: Hàng trăm hàng ngàn người từng bị cảm cúm, hàng trăm hàng ngàn người cũng từng bị đau tim thì phải chăng đau tim lại là vấn đề xã hội?
Số 1 bên phản biện: Một người hắt xì hơi không phải là vấn đề xã hội, nhưng tất cả chúng ta đây cũng hắt xì hơi thì không phải vấn đề xã hội sao ? (vỗ tay)
Trong hiệp tranh luận này, bên bảo vệ liên tục nêu ra hai câu hỏi có tính uy hiếp. Thứ nhất, những chứng bệnh nan y có thể coi là vấn đề’ xã hội không ?
Thứ hai, bệnh tim chiếm tỉ lệ mắc và chết cao nhất trong xã hội văn minh hiện đại có coi là vấn đề xã hội không ? Hai câu hỏi này, phía phản bác trước khi tranh biện chưa hề chuẩn bị chu đáo, và vì vậy tức thời khó mà trả lời xác đáng được. Thế là, bên phản bác đã áp dụng thuật Tránh trả lời câu hỏi, dùng giả định: bà cụ bị xe đâm và tất cả ở đây đều hắt xì hơi mà khéo léo né tránh câu hỏi của đối phương.
Với những vấn đề không muốn trả lời, cũng có thể dùng thuật này để né tránh. Sách Lã thị Xuân Thu có ghi cuộc trò chuyện giữa Trang Bá và ông bố: Lúc đó chưa có đồng hồ như ngày nay, liền lợi dụng phương vị mặt trời để xác định thời gian. Trang Bá là đại thần nước Sở lúc đó muốn biết giờ giấc, liền hỏi bố:
“Cha hãy ra xem mặt trời”.
“Mặt trời trên bầu trời”. Người bố nói.
“Cha xem mặt trời ra sao ?”
“Mặt trời đang tròn !”
“Cha xem vào giờ nào rồi?”
“Chính là giờ này đây “.
Dù Trang Bá là trụ quốc nước Sở, là chức quan cao nhất trong hàng võ, địa vị hiển hách. Thế nhưng bố vẫn là bố. Con sai bảo vặn vẹo bố thì bố làm sao mà vui được. Bởi vậy, ông đã không muốn đáp ứng yêu cầu của con, và dùng thuật Tránh trả lời câu hỏi để né tránh.
Lại có một bà vợ thương gia ăn mặc đúng mốt đến thăm một nhà văn nổi tiếng, bà ta nói:
“Phương pháp tốt nhất bắt đầu viết văn là gì ?”
“Tử trái qua phải. ” Nhà văn trả lời.
Với những bà giàu sang phè phỡn mà không phải nhắc tay động chân thì nhà văn không muốn trả lời. Và đo Vậy đã đùng thuật Tránh trả lời câu hỏi để châm biếm đối phương.
Tác dụng của thuật Tránh trả lời câu hỏi chủ yếu là để phòng vệ mà không tấn công. Nhưng nó cũng thường biểu lộ tài ứng biến linh hoạt của người biện luận và tài trí thông minh trong việc vòng vo của họ. Một nhà hùng biện không chỉ biết tiến công mà còn biết giữ mình, bởi vậy cũng rất cần nắm vững thuật này để phòng thân.

12. Thay thế để tránh né

Thay thế là biện pháp tu từ không gọi thẳng tên sự vật mà dùng sự vật khác có liên quan mật thiết để thay thế. Trong biện luận, khi gặp những câu hỏi khó trả lời mà không thể không trả lời thì chúng ta có thể dùng cách thay thế, mượn vật khác thay cho vấn đề ta cần thảo luận. Như vậy là có thể né tránh mục đích trả lời vào thực chất câu hỏi của đối phương. Chẳng hạn: Nghe nói có người hỏi thẳng Giê-su thế này:
“Chúng ta có phải nộp thuế cho Cây-da đại đế không ? “
Giê-su nghe vậy đã biết ngay sự xỏ xiên của người hỏi. Vì nếu nói: “Không cần nộp thuế ” thì người này có thể sẽ tố giác Giê-su với tội phản quốc, hậu quả sẽ không lường được. Nếu nói: “Phải nộp” thì sẽ làm cho các tông đồ thất vọng, vì chứng tỏ ông ta chịu khuất phục trước quyền lực nhà vua. Mà lúc đó dân chúng thì đều rên xiết trước sự áp bức bóc lột nặng nề.
Lúc đó Giê-su bèn mượn một đồng tiền vàng La Mã của người kề bên rồi hỏi người đặt câu hỏi:
“Hình phù điêu trên đồng xu là ai ? “
“Là Cây-da đại đế. “
“Vậy thì cái gì thuộc về Cây-da thì đều nên đưa cho Cây-da, cái thuộc về thần thì đưa cho thần !”
Trước câu hỏi xảo quyệt của đối phương, Giê-su đã dùng thuật Thay thế để tránh né. ông ta dùng đồng xu vàng La Mã để thay câu trả lời, và không hề đưa ra ý kiến phủ định hay khẳng định trực tiếp với thực chất câu hỏi. Điều này khiến đã đạt được mục đích tránh né một cách khôn khéo.
Muốn dùng thuật Thay thế để tránh né, điều mấu chốt là phải chú ý nhân thời, nhân địa, nhân sự mà chọn lựa đúng sự vật dùng thay thế. Chẳng hạn, có một lần một hãng truyền hình nước Anh phỏng vấn nhà văn Trung Quốc Lương Hiểu Thanh. Phóng viên là một người Anh giàu kinh nghiệm. Sau mấy câu xã giao, phóng viên liền bất ngờ đặt câu hỏi:
“Không có cuộc đại cách mạng văn hóa, chắc là không sản sinh ra được những nhà văn trẻ như các ông. Vậy thì đại cách mạng văn hóa trong mắt ông là tốt hay xấu ? “
Lương Hiểu Thanh hơi giật mình, không ngờ đối phương lại nêu câu hỏi khó trả lời đến vậy. Nhưng cái khó ló cái khôn, nhà văn lập tức phản bác:
“Không có Đại chiến thế giới thứ hai thì không có những nhà văn nổi tiếng phản ánh cuộc đại chiến này. Vậy thì ông cho rằng đại chiến là tốt hay là xấu ?”
Trước câu hỏi khó của đối phương, Lương Hiểu Thanh đã mượn Đại chiến thế giới lần thứ hai để trả lời, và đã chuyển câu hỏi khó sang cho đối phương. Chẳng hạn khi nhà văn. Lục Văn Phu phát biểu tại hội nghị thường niên các nhà văn quốc tế lần thứ 48 tại Niu Oóc thì có người Tây Phương hỏi:
“ông Lục, ông coi văn chương khiêu dâm là thế nào ? “
Lục Văn Phu nhấp giọng trả lời:
“Các bạn Phương Tây khi nhận một hộp quà tặng, thường mở ra trước mặt người khác. Còn người Trung Quốc thì ngược lại, thường là đợi khách về mới mở”.
Lục Văn Phu trước câu hỏi của đối phương đã khéo léo mượn hộp quà để trả lời, mà tránh trả lời trực tiếp câu hỏi đầy tính mẫn cảm này, lại tỏ ra rất hóm hỉnh. Những lời khôi hài và thông minh của ông đã được mọi người bày tỏ thái độ bằng tiếng cười hiểu ý.

13. Đẩy câu hỏi để tránh né

Thuật Đẩy trả câu hỏi để tránh né thực hiện bằng cách đẩy câu hỏi khó trở về cho đối phương để họ tự trả lời, và bản thân mình thì đạt được mục đích tránh né câu hỏi này. Ví dụ:
Một lần, phóng viên tờ báo A-si-a là Vạn Sĩ Đồng đến phỏng vấn Sái Ngạc.
Vạn: Bản báo là miệng lưỡi của dân, xin được hỏi về chính kiến của tướng quân.
Sái: Miệng của tôi đang đau, ông có miệng lưỡi thì hay lắm.
Vạn: Tôn Trung Sơn ở hải ngoại tuyên truyền đánh Viên (Thể Khai), tướng quân là bậc khởi đầu của cách mạng Tân Hợi, chắc cùng ý tưởng.
Sái: Bọn Tôn Trung Sơn chẳng phải là cũng chuẩn bị đế chế cho họ Viên đấy sao ?
Vạn: Đúng, đúng. Thế nhưng ông Lương Khai Siêu phản đối việc rùm beng về đế chế. Ngài chắc cũng đồng tình chứ ?
Sái: ông Lương là thầy của tôi. Viên tổng thống làm nguyên thủ quốc gia. Vậy tôi phải phục tùng ai đây?.
Vạn: Đúng vậy, phải phục tùng ai đây ?
Sái Ngọc đã lần lượt khôn khéo đẩy trả cậu hỏi về cho đối phương, tránh né câu hỏi của đối phương. Đó chính là thuật Đẩy trả câu hỏi để tránh né.
Dùng thuật này, không những có thể đạt được mục đích tránh né câu hỏi của đối phương mà có khi còn có thể đạt hiệu quả chuyển bại thành thắng. Trong tranh luận, câu hỏi đối phương dùng để gây khó dễ cho ta, chúng ta phải biết khôn khéo tiếp nhận để rồi đẩy trả lại cho họ, khiến câu hỏi khó lại trở lại lơ lửng trên đầu đối phương. Như vậy, chiến cuộc sẽ chuyển hướng. Chẳng hạn có một đoạn biện luận như sau:
Đơn vị nọ tổ chức hội thảo chuyên đề hôn nhân – gia đình và quan hệ vợ chồng. Đại diện bên A cho rằng vấn đề này phức tạp trên nhiều phương diện, không thể nói gọn được và nói nhiều chắc gì đã có lợi. Chi bằng chỉ nói những điều chọn lọc. Và thế là họ đem ra câu hỏi hắc búa cho đối phương, yêu cầu phải trả lời.
“Tôi muốn nêu câu hỏi cho bên B, hãy trả lời ngay. Anh đối xử với vợ anh thế nào ? Nghĩa là coi là tài sản tư hữu hay coi là tài sản công hữu ? Hay lại là công tư hợp doanh ?”
Đại diện bên B là một sinh viên đại học, đứng trước câu hỏi khó này đã không trả lời thẳng mà dùng thuật Đẩy trả câu hỏi để tránh né, và đáp lại:
“Với vợ tôi tôi đối xử đúng mực như mọi người đều rõ. Đại diện bên A, thế còn anh? Anh coi vợ là tài sản riêng hay công cộng ? Hay là công tư hợp doanh?”
Như vậy là đại diện bên A đã gậy ông đập lưng ông. Chỉ biết im lặng.
Sử dụng thuật Đẩy trả câu hỏi để tránh né như là bắt lấy lựu đạn định ném tới để ném trả lại, và kết quả là nổ trên đầu địch. Cần lưu ý, sử dụng thuật này cần tùy cơ ứng biến, không thể chần chừ. Nếu do dự, có thể bị thất

14. Né tránh bằng phân loại lớp sự vật

Có khái niệm thì lấy cá thể sự vật để phản ánh đối tượng. Ví dụ: “Lớp ta có 40 học sinh”. Học sinh ở đây là đối tượng phản ánh của cá thể học sinh. Nhưng cũng có khái niệm lại lấy lớp sự vật để phản ánh. Ví dụ: “Học sinh lớp ta có hai loại: học sinh nam và học sinh nữ”. Học sinh ở đây lại phản ánh lớp sự vật học sinh. Khái niệm phản ánh cá thể sự vật và khái niệm phản ánh lớp sự vật không giống nhau, ta không được lẫn lộn. Thế nhưng trong một số trường hợp tranh luận nào đó, để né tránh câu hỏi của đối phương, có thể làm lẫn lộn sự phân biệt này để nhằm thực hiện mục đích. Đó là thuật Né tránh bằng phân loại lớp sự vật.
Thủ tướng Chu ân Lai trong một bữa tiệc chiêu đãi các phóng viên trong và ngoài nước tổ chức tại Bắc Kinh, sau khi giới thiệu các thành tựu xây dựng kinh tế và phương châm đối ngoại, đã nhã nhặn mời các kí giả đặt câu hỏi. Lúc này, một phóng viên Tây Phương vội vã đứng lên, hỏi một cách không thiện ý:
“Xin hỏi, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc có bao nhiêu vốn ?”
Câu này thực chất là giễu cợt Trung Quốc nghèo, đồng thời cũng muốn moi bí mật quốc gia. Trước việc đó, thủ tướng đã mưa mẹo trả lời:
“Tiền vốn của Ngân hàng Trung Quốc à,… có 18 đồng 8 hào 8 xu”.
Vừa dứt lời thì cả đám kí giả vô cùng ngạc nhiên ! Không khí lặng yên để nghe thủ tướng giải thích. Và ông đã tiếp lời:
“Ngân hàng nhân dân Trung Quốc đã phát hành các giấy bạc mệnh giá là 10 đồng, 5 đồng, 2 đồng, 1 đồng, 5 hào, 2 hào, 1 hào, 5 xu, 2 xu và 1 xu. Cộng lại là 18 đồng 8 hào 8 xu. Ngân hàng Trung Quốc là cơ quan kim dung do nhân dân Trung Quốc làm chủ, có sự hậu thuẫn của nhân dân cả nước, rất tin cậy và có thực lực hùng mạnh. Tiền giấy nó phát hành rất có tín nhiệm trên trường quốc tế”
Một đoạn lời hay ý đẹp đã làm nức lòng mọi người ; tiếng vỗ tay vang dậy.
Với câu hỏi của người phóng viên nước ngoài nọ, thủ tướng đã không trốn tránh trả lời và đã làm cho không thể nào bắt bẻ được. Thủ tướng lại cũng không chỉ trích động cơ xấu của phóng viên nọ, mà chỉ dùng thuật Né tránh bằng phân loại lớp sự vật. Đổi khái niệm phản ánh đối tượng cá thể thành khái niệm phản ánh đối tượng lớp sự vật, và lấy tổng số mệnh giá ghi trên các loài giấy bạc làm câu trả lời. Như vậy, đã từ chối việc trả lời tổng số vốn của ngân hàng lại không phá vỡ không khí vui vẻ của bữa tiệc, và đã tỏ rõ tài năng ứng đối phi phàm của thủ tướng.
Cuộc biện luận giữa Lưu Đường và Càn Long cũng vậy.
Một hôm, vua Càn Long rỗi rãi, ông định gây khó dễ cho đại thần là Lưu Đường, hỏi rằng:
“Chín cửa kinh thành mỗi ngày đi ra bao nhiêu người ? Đi vào bao nhiêu người ?”
Lưu Đường giơ 2 ngón tay nói: “Hai người “.
“Sao chỉ có hai người ? “
Lưu Đường trả lời: “Thưa đấng vạn tuế thần không nói hai người mà là hai loại người: một là nam, một là nữ. Chẳng phải là hai người đó sao ? “
Càn Long lại hỏi: “Hãy nói một năm đẻ ra và chết đi, mỗi loại bao nhiêu người !”
Lưu Đường đáp: “Bẩm vạn tuế, cả nước Đại Thanh mỗi năm đẻ một người, chết mười hai người !”
“Cứ như vậy, chẳng phải là hết người hay sao ?”
Lưu Đường đáp: “Thần nói trên cơ sở sinh tử. Chẳng hạn nói năm nay là năm ngựa, bất luận là đẻ 1 ngàn, 1 vạn, 10 vạn hay trăm vạn đều thuộc tuổi ngọ. Cho nên nói một năm chỉ đẻ 1. Còn 1 năm thì cũng lại có người chết đi, dù là giờ nào và dù chết bao nhiêu cũng không thoát khỏi 12 con giáp. Cho nên thần nói một năm chết 12″.
Lưu Đường ở đây đã khéo dùng thuật Né tránh bằng phân loại lớp sự vật mà đã đạt mục đích né tránh câu hỏi khó của đối phương.

15. Ngắt câu

Ngắt ngừng là sự gián đoạn trong phát âm khi ta nói các từ, các câu. Ngắt ngừng là nhu cầu sinh lí để lấy hơi, vì trong khi nói, người ta không thể nói một mạch những điều cần nói. Giữa lời cần phải có nghỉ. Mặt khác, điều quan trọng là còn vì nhu cầu biểu đạt nội dung tư tưởng. Trong một câu có cần ngắt ngừng không, ở những chỗ khác nhau, sử dụng ngắt ngừng để biểu đạt ý nghĩa thường là cũng khác nhau. Chẳng hạn hai câu sau:
“Tôi không tin anh ta là người tốt !”
“Tôi không tin ! Anh ta là người tốt !”
Do ngắt ngừng khác nhau mà ý nghĩa biểu đạt khác hẳn nhau.
Thuật Ngắt cầu là phương pháp giành chiến thắng trong tranh luận bằng cách vận dụng sự ngắt ngừng câu hợp lí.

16. Trọng âm

Trọng âm trong câu là đọc nhấn mạnh từ nào đó trong câu để bộc lộ một ý nghĩa nào đó, một tình cảm đặc biệt nào đó. Vị trí của trọng âm được xác định tùy theo nội tâm của người nói. Trọng âm có vị trí khác nhau sẽ làm cho người nghe cảm thụ khác nhau. Chẳng hạn:
“Tôi đâu có nói anh. “
ở câu này, trọng âm rơi vào tôi, cho một cảm thụ là: Người khác nói, đừng có đổ lên đầu tôi, tôi đâu có nói.
“Tôi đâu có nói anh”.
ở câu này, trọng âm rơi vào anh, cho một cảm thụ là: người tôi nói không phải là anh, anh không nên hiểu nhầm. Do trọng âm trong câu khác nhau mà hiệu quả biểu đạt cũng khác nhau.
Như ta đã biết, trọng âm ở vị trí khác nhau thì cảm thụ cũng khác nhau. Có khi chúng ta còn thậm chí có thể lợi dụng hiệu quả này của trọng âm để đạt mục đích chiến thắng trong tranh luận. Đó là thuật Trọng âm.
Có người căn vặn Mai-a-cốp-xki:
“Mai-a-cốp-xki này, tại sao tay anh lại đeo nhẫn? Thật chẳng hợp chút nào!”
“Theo anh nói, thì nhẫn của tôi không nên đeo ở tay mà mà đeo ở mũi à ?”
Nhà thơ trả lời.
Vốn là trọng âm của đối phương rơi vào cái nhẫn, còn nhà thơ cố tình hiểu là trọng âm ở tay, và đã phản kích mạnh mẽ, khiến đối phương khó nói. Lại ví dụ:
Một hôm, có một quan khách ngoại giao bắt gặp tổng thống Lin-côn đang cúi đầu đánh đôi giày của mình, liền hỏi:
“Ô ngài tổng thống, ngài vẫn thường đánh giày cho mình sao ?”
“Đúng vậy,” Lin-côn trả lời “Anh thì đánh giày cho ai ?”
Vốn là vị quan khách ngoại giao này nói có trọng âm ở vẫn thưởng, ý muốn nói: ông là tổng thống sao phải đánh giày ? Tổng thống thừa hiểu ác ý của câu hỏi bèn cố tình hiểu trọng âm lên mình, rồi nhân đó phản kích: Anh thì đánh giày cho ai ? Điều này hàm ý ông ta rất khinh miệt vị quan khách ngoại giao nọ

17. NGữ Điệu

Ngữ điệu là sự thay đổi lên xuống cao thấp trong câu. Cùng một câu mà ngữ điệu khác nhau thì ý nghĩa biểu đạt có thể khác nhau, thậm chí có thể trái ngược nhau. Ví dụ:
Hồng Thừa Trù là trọng thần cuối đời nhà Minh được vua Sùng Chinh mến mộ, ông ta có ý viết một đôi câu đối vào giữa phòng khách:
Quân ân thâm tự hải ;
Thần tiết trọng như san.
(Nghĩa là: ơn vua sâu như biển ; Tiết tháo của bề tôi nặng như núi.)
Về sau, đánh nhau với quân Thanh tại Tùng Sơn rồi bị bắt làm tù binh, ông ta đã quỳ gối đầu hàng. Người đương thời liền sửa lại câu đối của ông ta:
Quân ân thâm tự hải hĩ!
Thần tiết trọng như san hồ ?
(Nghĩa là: ơn vua sâu như biển vậy ! Tiết tháo của bề tôi nặng như núi vậy sao?)
Ngữ điệu thay đổi, và ý nghĩa cũng quay ngược lại, hàm ý đả kích và khinh bỉ loài phản bội dân tộc. Bởi vậy, trong tranh luận ta không thể không lựa chọn ngữ điệu thích hợp, có khi thậm chí có thể qua ngữ điệu thích hợp mà đạt được mục đích chiến thắng. Đó chính là thuật Ngữ điệu.
Một đoạn tranh luận nổ ra giữa Triệu Thụ Lí và bọn làm phản như sau:
Trong suốt 10 năm rối loạn, nhà văn Triệu Thụ Lí nổi tiếng thường bị lôi ra đấu tố. Có lần Triệu Thụ Lí đã phản bác bằng lí lẽ khiến bọn làm phản cứng họng, bọn cuối cùng đành phải gán tội bằng cách bức kí bản nhận tội. Bọn chúng gán không biết bao nhiêu là tội của bọn Giang Thanh cho Triệu Thụ Lí, qua tờ giấy cung viết sẵn và ép ông kí tên nhận tội. Nhà văn cầm bút viết rằng:
“Anh bảo tôi là thì tôi là ?”
Bọn đánh hôi thấy dòng chữ như bắt được vàng, quơ vội lấy tờ cung, nói:
“Triệu Thụ Lí, giấy trắng mực đen nhé, rõ ràng chữ chính anh viết ra, ngày tận số rồi đấy. Ngày mai ra trước đại hội, luận tội trước quần chúng, cấm có phản cung. “
Triệu Thụ Lí nói: “Chắc chắn là đến số rồi, đâu có phản cung !”
Hôm sau đại hội, người dự khá đông.
Cuộc đấu bắt đầu, tên cầm đầu phái làm phản cầm tờ giấy nọ gào to: “Qua đấu tranh, tên nhà văn ngoan cố Triệu Thụ Lí cuối cùng đã nhận tội chống phá cách mạng… Bây giờ giai nó ra để nó nhận tội trước bà con ! “
Triệu Thụ Lí bị giải tới, và ông đã nói trước micrô: “Tôi không thừa nhận !”
Bọn làm phản sau phút ngơ ngác thì đập bàn quát: “Láo ! Đây chả phải là tử cung mày viết sao ? “
“Cái tôi viết là: “Anh bảo tôi là thì tôi là ?””
“Như vậy không đúng là thừa nhận thì là gì ? “
Triệu Thụ Lí nói: “Các anh không xem xem dấu hỏi cuối câu à ? “
Bỗng nhiên quần chúng cười ồ cả lên. Bọn làm phản tiu nghỉu, đành chuồn thẳng.
Triệu Thụ Lí ở đây đã dựa vào tình hình thực tế của sự vật, chọn lựa ngữ điệu nghi vấn hợp lí và đã chế nhạo bọn làm phản một cách chua cay, bảo vệ được mình và giành được chiến thắng trong tranh luận.

18. Thay đổi trật tự

Trật tự từ là một cách thức cơ bản tạo lời, đặc biệt là với loại hình ngôn ngữ đơn lập phân tích tính như tiếng Hán. Trong một câu, nếu trật tự khác nhau thì ý nghĩa biểu đạt thường là khác nhau. Thuật Thay đối trật tự từ là phương pháp giành chiến thắng trong tranh luận bằng cách thông qua việc biến đổi trật tự sắp xếp các từ ngữ trong câu.
Trong tranh luận, thuật Thay đối trật tự từ có những tác dụng như sau:
1. Trật tự từ ngữ khác nhau, cảm thụ chủ quan mang lại cũng khác nhau. Chẳng hạn, hai sinh viên trường luật đang tranh luận một vấn đề: Khi học về luật, có thể hút thuốc không. Và ai cũng giữ ý kiến của mình, không chịu nhường ai. Cuối cùng đành nhờ Rab-bi (thầy giáo) xử:
“Rab-bi”, Học sinh A hỏi, “Khi học luật, hút thuốc có được không ?”
“Không được !” Rab-bi tức giận nói.
“Anh hỏi sai rồi ! ” Học sinh B trách học sinh A. Rồi đó, anh ta đến bên Rab-bi, hỏi:
“Rabbi, mọi người khi đang hút thuốc mà học luật thì có được không ?”
“Đương nhiên là được !” Rab-bi vui vẻ khẳng định.
Cũng là vừa hút thuốc vừa học luật, thế nhưng trật tự từ ngữ khác nhau đã cho một ngữ cảm khác nhau, và kết quả tranh luận cũng khác hẳn nhau.
2. Trật tự từ ngữ khác nhau, ý nghĩa biểu đạt chủ thứ nặng nhẹ khác nhau. Chẳng hạn, với khách đến từ thủ đô, chủ hàng sẽ nói:
“Đây tuy chỉ là tơ sợi nhà quê, nhưng lại dệt ra vải lụa kinh thành. “
Thế nhưng, với khách đích thực nhà quê, thì ông ta lại nói:
“Vải lụa thì dệt ra ở kinh thành, nhưng tơ sợi thì lại ở nhà quê. “
Với những loại câu ghép chính phụ kiểu nhượng bộ – tăng tiến thì trật tự từ ngữ khác nhau thì đối tượng cần nhấn mạnh cũng khác nhau.
3. Trật tự từ ngữ khác nhau thì mục đích của hành vi cân biểu đạt cũng khác nhau. Chẳng hạn, có người hỏi nhà triết học Hi Lạp cổ đại là A-ri-stốt rằng:
“Ông và người bình thường có gì khác nhau ? “
A-ri-stốt trả lời:
“Họ sống là để ăn còn tôi ăn để sống. “
A-ri-stốt đã khéo léo thay đổi trật tự từ ngữ để biểu đạt mục đích sống khác nhau của hai loại người: người bình thường thì sống là để ăn, ăn no rồi không làm gì. Còn nhà triết học mục đích sống là để sáng tạo ra cuộc sống phong phú đa dạng.
4. Trật tự từ ngữ khác nhau, quan hệ nhân quả biểu đạt cung khác nhau. Tháng 2 năm 1933 nhà văn Anh Béc-na So đến thăm Trung Quốc, Lỗ Tấn và Sái Nguyên Bồi đã tiếp ông tại nhà bà Tống Khánh Linh ở Trùng Khánh. Sau bữa cơm, mọi người dạo chơi vườn hoa, lúc này thời tiết tạnh ráo sau nhiều ngày mưa sụt sùi, ánh mặt trời hiền hòa rọi trên mái tóc bạc của So. Sái Nguyên Bồi vui vẻ nói:
“ông So này, ông thật là hên, ông đã nhìn thấy mặt trời ở Thượng Hài rồi đó.”
So nghe vậy, mỉm cười nói:
“Không, đó lô mặt trời gặp may, đã nhìn thấy tôi ớ Thương Hại đấy !” Lời So thật là ngộ, nhưng chan chứa ý vị.
Trật tự từ ngữ trong tranh luận có tác dụng không thể coi thường. Một nhà hàng biện muốn chiến thắng, không thể không chú ý chọn lựa trật tự từ ngữ thích hợp để biểu đạt quan điểm của mình.

19. Thế đồng nghĩa

Tư duy và ngôn ngữ không phải là cặp một đối một. Có khi cùng một từ ngữ một câu có thể biểu đạt nội dung tư duy khác nhau. Có khi cùng một nội dung tư duy như nhau mà có thể biểu đạt bằng những hình thức khác nhau. Tuy rằng các hình thức ngôn ngữ khác nhau có thể dụng để biểu đạt một nội dung tư duy, song hiệu quả biểu đạt lại không hoàn toàn như nhau. Thuật Thế đồng nghĩa là phương pháp giành chiến thắng trong tranh luận bằng việc dựa vào các hình thức biểu đạt ngôn ngữ khác nhau được chọn lựa để biểu đạt một nội dung tư duy.
Ta hãy quan sát câu chuyện A-van-ti đoán mộng cho vua:
Có một ông vua nằm mê có người nhổ hết răng của ông ta đi. Khi tỉnh dậy, ông ta đòi tể tướng đến giải mộng. Tể tướng nói:
“Cả nhà bệ hạ sĩ chết trước bệ hạ. “
Nhà vua giận dữ, giết chết thừa tướng. Sau đó vua lại gọi A-van-ti đến giải mộng. A-van-ti nói:
“Bê hạ sĩ trường thọ hơn hết thảy mọi gia quyến. “
Hoàng đế vui vẻ hẳn lên, thưởng cho A-van-ti một áo gấm.
Ta thấy đấy, thừa tướng và A-van-ti cùng biểu đạt một nội dung tư tưởng như nhau, tức là vua chết sau, gia thuộc chết trước. Thế nhưng hình thức ngôn ngữ sử dụng khác nhau mà hiệu quả biểu đạt khác nhau. “Cả nhà bê hạ sẽ chết trước bệ hạ. ” quốc vương nghe ra như nguyền rủa gia quyến ông ta chết sớm, và kết quả là thừa tướng bị xử tử. Còn A-yan-ti nói: “Bệ hạ sĩ trường thọ hơn hết thảy mọi gia quyến. ” Như vậy ta có cảm giác là ca ngợi quốc vương trường thọ. Hiệu quả biểu đạt đá khác xa với cách trên.
Sử dụng thuật Thế đồng nghĩa trong nhiều trường hợp, chúng ta có thể tránh được điều cấm kị. Truyền thuyết kể rằng vua Càn Long đi du lãm chùa Kim Sơn ở Trấn Giang. Vị sư chủ trì sai một tiểu hòa thượng mau mồm mau miệng đi hướng dẫn. Khi tiểu hỏa thượng hướng dẫn nhà vua lên núi có nói một câu:
“Vạn tuế gia bộ bộ cao thăng. “
(Nghĩa là: Đấng vạn tuế từng bước lên cao.)
Càn Long có ý định thử tài đối đáp của nhà sư nọ, lúc xuống núi bèn nói:
“Nhà chùa khi lên núi có nói ta từng bước tên cao. Bây giờ thì sao ? ” Nhà sư lập tức đáp ngay:
“Vạn tuế gia hậu bộ tỉ tiền bộ cánh cao. “
(Nghĩa là: Đấng vạn tuế bước sau cao hơn bước trước.)
Nhà sư nọ, để tránh: bộ bộ hạ giáng là một câu rất kị mà đổi ra giác độ quan sát sự vật, so sánh bước sau với bước trước để phân tích: Bước sau vừa có thể chỉ bước chân sau, khi xuống núi, lại vừa chỉ tương lai của nhà vua. Bằng câu nói có hai tầng ý như vậy để thay cho bộ bộ hạ giáng, nhà sư đã thoát ra khỏi cửa ải.
Biết sử dụng hợp lí thuật Thế đồng nghĩa, có khi còn mang lại màu sắc châm biếm hài hước đậm nét cho lời tranh luận của chúng ta. Chẳng hạn, trường đại học Oxford có người tên là E-vơ-lây vì biết làm thơ chút ít mà cũng có tiếng tăm trong trường. Một hôm anh ta đọc thơ mình sáng tác trước các bạn. Và có người là Tra-sư nói:
“E-vơ-lây, thơ anh tôi rất thích, nó được đánh cắp từ một quyển sách. “
Câu này đến tai E-vơ-lây, anh ta rất tức giận, yêu cầu Tra-sư phải xin lỗi công khai. Tra-sư lại nói:
“Từ xưa tôi đã ít khi lấy tại lời của mình. Lần này, tôi nhận sai. Tôi vốn cho rằng thơ của E-vơ-lây là đánh cắp từ quyển sách tôi đọc. Thế nhưng, tôi về nhà giở sách ra xem thì phát hiện ra rằng bài thơ nọ vẫn ở đó. “
“Bài thơ nọ là đánh cắp từ một quyển sách” hình thức ngôn ngữ tuy khác với “Bài thơ nọ vẫn ở đó”, nhưng ý nghĩa biểu đạt như nhau. Tra-sư đã khéo dùng thuật Thể đồng nghĩa để mỉa mai E-vơ-lây.
Thuật Thể đồng nghĩa là một kĩ xảo ngôn ngữ thú vị, nó có thể làm cho lời ta nói phong phú đa dạng, có sức hấp dẫn và có thể dùng vào khi tranh luận.

20. Khéo giải nghĩa từ ngữ

Ngôn ngữ tự nhiên vốn là mơ hồ, cung vậy, từ trong ngôn ngữ tự nhiên cũng là mơ hồ. Tính mơ hồ đó chủ yếu biểu hiện ở tính đa nghĩa của từ. Cùng một từ, có thể biểu thị những hàm nghĩa khác nhau. Tính đa nghĩa này của từ đó cho ta một điều kiện có lợi để khi tranh luận dựa vào những trường hợp khác nhau, đối tượng khác nhau, yêu cầu khác nhau mà lựa chọn cho thích hợp. Thuật Khéo giải nghĩa từ là phương pháp khuất phục kẻ địch, giành chiến thắng bằng cách cho một từ hoặc những từ nào đó những ý nghĩa xác định.
Một trường nọ mở cuộc thi làm văn, một học sinh được giải nhất đã đọc bài văn của mình tại buổi lẽ phát thưởng. Đang khi em này đọc say sưa tự mãn, bóng có tiếng thì thào: “Hùm ! Bài văn này là chép đây! “
Bỗng nhiên, các bạn chụm đầu thì thâm với nhau. Lúc này, một học sinh nói to: “Đúng vậy, là chép mà !”
Cả trường ồ lên. Thầy cô giật mình: “Thi làm văn là một hoạt động nghiêm túc nghiêm cấm mọi hành vi giả dối. Nếu bài văn của anh là chép, khi chấm sẽ xóa tên dự giải… “
Cả trường lại ồn ào. Thế nhưng học sinh nọ vãn điềm nhiên nói:
“Xin hãy dế tôi nói hết đã, bài văn đúng là chép, không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi nói là chép, vì do mình nghiền ngẫm đề cương rồi viết thành bản thảo đế sửa chữa. Sau đó, xác định thành nguyên bản. Bởi vậy, tôi đã chép đúng tư tưởng riêng của tôi. Lẽ nào việc sao chép này là sai ?”
Không khí lắng xuống, cả trường vang dậy tiếng hoan hô. Và học sinh này đã nhận được phần thưởng của các thầy cô.
Từ “chép” này vừa biểu đạt ý nghĩa ăn cắp văn thơ của người khác, lại vừa có nghĩa sao chép văn bản. Như ta đã thấy, học sinh nọ đã ghép cho nó nghĩa thứ hai. Bởi vì, trong trường hợp này mọi sự thanh minh, tranh cãi đều vô ích. Học sinh nọ biết vậy, đã khôn khéo dùng thuật Khéo giải nghĩa từ để trấn an dư luận, giành lấy vòng nguyệt quế.
Thuật Khéo giải nghĩa từ đã tỏ rõ một tài năng ứng biến linh ‘hoạt của nhà hùng biện. Khi tranh luận, đôi khi cũng có lời thất thố, thuật Khéo giải nghĩa từ cũng có thể giúp ta thoát khỏi cảnh khó khăn này. Dù rằng đứng trước kẻ thù hung bạo, thuật Khéo giải nghĩa từ cũng có thể là vũ khí chiến thắng.
Một hôm Sa hoàng ra lệnh triệu kiến nhà thơ cách mạng U-crain là Sép-tren-cô. Khi triều kiến, các văn võ bá quan trong cung đều phải khom lưng phủ phục, riêng Sép-tren-cô vẫn đứng ưỡn người, nhìn chằm chằm vào Sa hoàng.
Sa hoàng giận dữ hỏi: “Ngươi là ai vậy ?”
Nhà thơ trả lời: “Tôi là Sép-tren-cô.”
“Ta là vua, sao ngươi không phủ phục ? Cả nước, ai dám gặp ta mà không cúi đầu ?”
Sép-tren-cô bình tĩnh nói: “Tôi không phụ muốn gặp ngài mà là ngài muốn gặp tôi. Nếu tôi cũng khom lưng phủ phục như những người xung quanh, thử hỏi, ngài làm sao thấy được tôi ?”
Trong tiếng Nga, từ triều kiến vừa có nghĩa đến theo lời gọi, cũng có thể biểu thi nghĩa xem mặt mũi. ở đây, nhà thơ đó vận dụng nghĩa thứ hai để biểu thị khí phách ngang nhiên, không sợ cường quyên.
Muốn dùng thuật Khéo giải nghĩa từ để giành chiến thắng, thì xác định trong giờ phút mấu chốt của tranh luận phải nhanh chóng phát hiện những từ ngữ đặc biệt có khả năng biểu đạt nhiều hàm nghĩa, từ đó chọn lựa những lớp nghĩa cố lợi cho mình để giải thích theo hướng bất ngờ với đối thủ, từ đó giành quyền chủ động trong tranh luận.

21. Giải thích câu theo ý khác

Ngôn ngữ tự nhiên vốn mơ hồ. Tính mơ hồ đó biểu hiện ở chỗ cùng một câu mà ý nghĩa biểu đạt khác nhau. Thuật Giải thích câu theo ý khác là phương pháp giành chiến thắng trong tranh luận bằng cách dựa vào yêu cầu tranh luận của mình mà đưa ra cách giải thích riêng biệt về một câu nào đó.
Dùng thuật Giải thích câu theo ý khác, giải thích một câu nào đó theo một ý bất ngờ thường làm cho lời tranh luận của ta mới mẻ, mạnh mẽ. Ta hãy xem đoạn tranh luận giữa Lí Khắc và Ngụy Văn Hầu.
Theo ghi chép Thích Uy. Lã thị Xuân Thu, có lần Ngụy Văn Hầu hỏi đại thần Lí Khắc: “Nguyên nhân nước Ngô diệt vong là gì ?” Lí Khắc lập tức trả lời: “Là vì nhiều lần đánh nhiều lần thắng.” Ngụy Văn Hầu phân vân không hiểu. Lí Khấc liền giải thích:
“Nhiều lần đánh, nhân dân sẽ mệt mỏi. Nhiều lần thắng, nhà vua sẽ sinh kiêu. Lấy ông vua kiêu ngạo thống trị nhân dân mệt mỏi, đó chính là nguyên nhân bại vong. “
“Nhiều lần đánh nhiều lần thắng” thường là dẫn đến nguyên nhân nhà nước hưng thịnh. Còn Lí Khắc ở đây đã khéo léo giải thích mà rút ra kết luận khiến nước Ngô diệt vong, thật là độc đáo, sinh động mà mạnh mẽ.
Dùng thuật Giải thích câu theo ý khác để đưa ra lời giải thích bất ngờ cũng thường biểu đạt lối mỉa mai châm biếm với đối phương. Chẳng hạn: Khi Uyn-sơn làm thống đốc bang Níu Jersey, ông ta nhận được điện thoại từ Washington, D.C. nói rằng một nghị sĩ bang Niu Jersey – tức bạn của ông – đã qua đời.
Uyn-sơn rất xúc động, lập tức hủy bỏ mọi cuộc hẹn trong ngày. Sau mấy phút, ông lại nhận được cú điện thoại của một chính trị gia Niu Jersey.
“ông thẳng đốc”, người nọ lắp bắp nói “Tôi, tôi hi vọng có thế thay thế vị trí của ông nghị sĩ nọ.”
Được lắp Uyn-sơn rất bực với thái độ “nhanh nhẹn” của y. ông chậm rãi trả lời “Nếu nhà quàn đồng ý, thì cá nhân tôi cũng nhất trí. “
Câu: “Thay thế vị trí của ông nghị sĩ nọ” có thể chỉ ý: thay ông nghị sĩ kia để làm nghị sĩ; cũng có thể chỉ ý: thay thế vị trí trong nhà quản của ông

22. Cậy số đông

Chân lí không phải bao giờ cũng nằm trong tay đa số. Thế nhưng, trong khi biện luận, kẻ ngụy biện không phải là để tìm tới chân lí trong nhận thức mà là lấy đa số làm lí do, cho rằng đa số là đúng đắn, đa số là chân lí. Đó chính là ngụy biện kiểu Cậy số đông.
Ta hãy quan sát câu chuyện hài hước nước ngoài như sau:
Xưa kia có một phú thương vốn tính keo kiệt. Con trai ông ta bên ngoài vay nợ rất nhiều, nhưng ông ta không chịu hoàn trả. Đứa con đành phải hẹn với các chủ nợ là đợi khi bố chết sẽ tra hết. Có một hôm, đứa con trai thực sự là không đợi được nữa, liền bàn với chủ nợ là đem chôn sống ông bố. Hắn ta tấm gội và thay quân áo cho ông phú thương rồi ấn ông ta vào quan tài. Quan tòa đi qua nghe tiếng kêu la của ông liền bước vào hỏi. Phú thương trong quan tài nghe thấy có người hỏi, cho là có cơ may được cứu sống, bèn hét toáng lên: “Cứu tôi với ! Đại nhân. Thằng con tôi định chôn sống tôi!”.
Quan tòa trách mắng đứa con nọ: “Sao may lại định chôn sông bố mày ? “
“Đại nhân, ông ta lừa ông đây, ông ta chết thật rồi mà. Không tin, ông hay hỏi mọi người. ” Thằng con trả lời.
Quan tòa quay ra hỏi những người đứng quanh: “Các ông đều làm chứng chứ?”
“Chúng tôi làm chứng.” Bọn chủ nợ đáp.
Thế là quan tòa nói với phú thương trong quan tài rằng: Sao tôi có thể tin một mình nguyên cáo là ông ? Lẽ nào bao nhiêu người thế này đều nói dối đây ? Nói xong liền khoát tay tuyên án “Chôn đi !”
Rõ ràng phú thương là sống thế mà quan tòa lại chơi cái trò ngụy biện kiểu Cậy số đông, chỉ dựa vào đa số, làm lẫn lộn phải trái, đưa ra phán đoán sai lầm, thật là giả dối cực độ.
Ngụy biện kiểu Cậy số đông sở dĩ là giả dối, bởi vì đa số không tất yếu là chân lí. Chân lí có lúc thuộc về thiểu số. Nếu chỉ lấy đa số làm căn cứ để luận chứng thì khó mà tránh khỏi hiệu quả ngụy biện dãn tới đảo lộn trắng đen. Lại ví dụ:
Theo Truyện Viên Xán. Tống Thư: Từ xa xưa, ở miền nam có một quốc gia nhỏ bé ở nơi heo hút. Đất nước này không có sông ngòi, chỉ có một mạch nước suối. tên là Cuồng Tuyền. Những ai uống nước suối này vào, thảy đều phát điên. Ngoài quốc vương ra, người dân cả nước ai cũng uống nước này. Thế là cả nước ai cũng cuồng điên, kẻ thi ngây dại, kẻ thì cười sằng sặc, kẻ thì mình trần tóc xõa, kê thì nhe răng há miệng, thật là đủ các kiểu, hết sức kì quặc. Chỉ riêng quốc vương đào một cái giếng ở sân sau mà ăn uống nước này. Bởi vậy vẫn bình thường. Nhân dân thấy vua nói năng phong thái khác với mọi người thì ngỏ là nhà vua bị điên, liền họp bàn và quyết định giúp vua chữa khỏi điên. Mọi người ùa vào cung, đè vua xuống giường, người thì lấy kim châm, kẻ thì đốt ngải. Quốc vương bị hành hạ đến kêu la thảm thiết, không thể chịu nổi nữa. Và cuối cùng cùng đành phái tới bên Cuồng Tuyền mà tợp mấy ngụm. Uống xong, nhà vua cũng phát cuồng. Lúc này thì cả nước không trừ một ai, điên tuốt.
Khi nhân dân cả nước.gần như bị điên rồi thì bọn người điên nọ Cập số đông, lấy đa số làm căn cứ. Những ai đầu óc tỉnh táo lại bị coi là người điên khùng, còn kẻ điên thực sự lại cho là đầu óc tỉnh táo. Như vậy. đúng sai, đen trắng bị đảo lộn hết.

23. Uy hiếp bằng vũ lực

Trong biện luận, người biện luận không thuyết phục hằng lí lẽ mà lấy vũ lực để uy hiếp, đe dọa bắt buộc đối phương phải tiếp thu quan điểm của mình. Đó chính là ngụy biện kiểu Uy hiếp bằng vũ lực.
Theo báo chí thì tại một vùng quê ô’ Tương Tây có cô gái tên là Ngô X công anh chàng Trân Y hủy bỏ hôn ước. Nhà họ Ngô có món lẽ ăn hỏi hơn 600 đồng chưa kịp trả cho nhà họ Trần. trần Y tiền gõ 5 tên côn đồ từ Thường Đức thì hứa là đối được tiền thì trả công mỗi thằng là 40 đồng. Bọn chúng cơm no rượu Say tại nhà họ trần, xong liền đằng đằng sát khí xông tới nhà họ Ngô đòi nợ:
“May ! Cầm ngay 600 đồng ra đây !”
“Trong 3 tiếng không nộp ra thì dỡ nhà gán nợ ! “
Nhà họ Ngô thấy bọn này nói là làm thì sợ, đành phải vay nợ xóm làng cho đủ số 600 đồng. Lúc này mới tránh khỏi cái họa bị dỡ nhà.
Trần X đòi nợ không theo cách dùng lí lẽ thiệt hơn mà dùng sức mạnh của xã hội đen, dọa dỡ nhà, lấy vũ lực làm hậu thuẫn. Đó chính là một điển hình của ngụy biện kiểu Uy hiếp bằng vũ lực.
Uy hiếp bằng vũ lực thường là xảy ra khi kẻ ngụy biện đã thất bại bằng bàn luận lí tính, tức là khi đuối lí cùng lời mà không chịu bị thua, không còn cách gì, thế là ngang ngược chà đạp công lí, dùng vũ lực đề uy hiếp. Cũng có kẻ không bao giờ dùng lời lẽ, hễ thấy không vừa lòng là xắn tay áo lên đòi đối phương ra ngoài đánh nhau, muốn ra gì thì ra. Loại người này ỷ vào sức khoẻ thường dùng vũ lực để áp đảo đối phương. Người đời nói: già đòn non nhẽ mà, đó là cách giải quyết của họ.
Loại ngụy biện này không chỉ tồn tại trong đám mọi người, trên vũ đài quốc tế cái gọi là ngoại giao sức mạnh thực chất cũng là ngụy biện kiểu Uy hiếp bằng vũ lực. Ví dụ:
Ngày 12 tháng 2 năm 1938, Hít-le và Xusnigơ – thủ tướng áo hội đàm tại Pốt-sđam. Trong hội đàm, Hít-le đe dọa:
“ông Xusnigơ, đây là bạn dự thảo văn kiện. Trong đó không có gì phải thảo luận ca. Tôi sẽ không thay đối một chút nào trong đó đâu. ông cần phải giữ nguyên mà kí thôi, trong ba ngày phải làm theo yêu cầu của tôi. Nếu không, tôi sự ra lệnh tiến quân vào áo. “
Hít le sở dĩ ngạo mạn như vậy, cương bức đối phương phải khuất phục, chính là hắn ta có một thực lực quân sự hùng mạnh làm hậu thuẫn. Lại ví dụ:
Ngày 14 tháng 3 năm 1938, Hít le hội đàm với Ha sa là tổng thống Tiệp và bộ trướng ngoại giao nước này là Sê vát Cơphuski đã uy hiếp là quân đội Đức ngay hôm đó đã tiến quân. Gặp phải kháng cự ở đâu đó và đã tiêu diệt sạch. Binh lực Đức trong trận này là một sư đoàn, còn Tiệp là một tiểu đoàn. Y yêu cầu phải kí ngay vào văn kiện đâu hàng. Thế là, từng bước từng bước ném cho tổng thống và bộ trượng ngoại giao Tiệp văn kiện đầu hàng, lại còn nhắc lại:
“Nếu cự tuyệt thì trong hai tiếng Praha một nửa sẽ biến thành đống gạch vụn.”
Tổng thống Tiệp hoảng hốt mà ngất đi, tiêm thuốc hồi tỉnh xong buộc phải kí vào bản án tử hình cho đất nước.
Đó chính là ngoại giao sức mạnh, là điển hình của việc cậy vào sức mạnh.

24. CẬY VÀO QUỶ THẦN ( HAY LÀ SỬ DỤNG YẾU TỐ MÊ TÍN, TÂM LINH , HUYỀN HỌC, PHONG THUỶ )

Khi người ta dưới ách áp bức của tự nhiên và xã hội mà không chống nổi thì đã tin tưởng một cách mù quáng rằng trong coi u minh có thần linh chi phối vận mệnh đời sống con người. Tư tưởng mê tín vào thần linh rất phổ biến trong xã hội phong kiến. Và ngay cả khi khoa học phát triển cao như ngày nay, số người tin vào quỷ thần cũng không ít. Kẻ ngụy biện cũng thường hay dựa vào tư tưởng mê tín đối với quỷ thần của mọi người mà bào chữa cho cái giả dối của họ, khiến âm mưu được thực hiện. Đó là ngụy biện kiểu Cậy vào quỷ thần. Ví dụ:
Năm 1052, Nùng Trí Cao châu Quảng Nguyên ở miền nam dấy binh đánh Tống. Tống Nhân Tông cử đại tướng là Địch Thanh mang đại quân đi dẹp. Đại quân ra khôi Quế Lâm, đường đi hiểm trở, lòng quân dao động, không ít binh sĩ bỏ trốn. Để ổn định tinh thân quân đội, Địch Thanh nghĩ ra một cách. Một hôm, Địch Thanh nói với các tướng sĩ:
“Lần này đến miền nam thảo phạt phiến quân là lành hay dữ để cho thần linh quyết định. Nếu lành, thì ta tung ra đất 100 đồng tiền, đồng nào cũng ngửa, chỉ cần một đồng sấp là do Lúc đó ta sẽ ban sớ hồi triều.”
Có người khuyên: “Dù có may mắn thế nào thì 100 đồng tiền tung ra cũng không thể có 100 đồng đều ngửa. Nếu có đồng sấp thì lòng quân sinh biến, không chiến mà hồi triều, chẳng phải là chống lại thánh chỉ sao ? Xin đại tướng quân xét kĩ! “
Địch Thanh không nghe, bảo tâm phúc đưa ra một túi tiên đồng. Quân sĩ kẻ nào cũng chăm chú theo dõi. Chỉ thấy ông ta lầm nhầm khấn: “Thần minh bảo hộ, thần minh bảo hộ… ” Bỗng ông ta vốc một nắm tiền mắt nhắm lại rồi tung lên. Khi tiền rơi xuống, quân sĩ quây đến xem, cả 100 đồng đều ngửa. Quả thật là thần linh bảo hộ! Toàn quân đều biết, tiếng hò reo hoan hô vang dậy.
Lúc này Địch Thanh lệnh cho tâm phúc mang một trăm cái đinh, đóng các đồng xu lên mặt đất, rồi dùng lụa xanh phủ lên, tự tay đậy kín. Rồi đó thành tâm nói: “Chờ đạo quân thắng trận trở về, đến đây sẽ lễ tạ thần minh.” Lúc này toàn quân tinh thần lên cao, thế như chẻ tre, và đã nhanh chóng bình định được cuộc phiến loạn do Núng Trí Cao gây ra.
Kì thực, những đồng tiền này chỉ toàn có mặt chính. Địch Thanh lợi dụng tâm lí tin vào quỷ thần của các tướng sĩ và những đồng tiền chỉ có mặt chính nọ, kết quả là đạt được mục đích dự định.
Với ngụy biện kiểu Cậy vào quỷ thần, chỉ cần tin chắc là trên thế giới hoàn toàn không có thần linh thì ngụy biện kiểu này sẽ phá sản.
Trong Duyệt Vi Thảo đường bút kí của Thanh Kỉ Vân có vụ án như sau:
Có một tổng đốc tên là Đường Chấp Ngọc thụ lí một vụ án giết người. án đã xem xét xong. Một hôm về đêm, ông một mình ngồi trước nến, bỗng nghe thấy tiếng khóc tỉ ti, mỗi lúc một gần bên cửa sổ. Mở rèm ra, ông thấy một con ma người đây máu quỳ dưới bậc thềm. ông nghiêm giọng quát, con ma bèn dập đầu nói: “Đứa giết chết tôi vốn là A, nhưng quan huyện xử nhầm cho B. Không trừng phạt đúng thủ phạm, để nó lọt lưới, lôi chết cũng không nhắm mắt!” Đường Chấp Ngọc nói: “Ta biết rồi “. Ma lúc đó mới chịu đi.
Ngày hôm sau, Chấp Ngọc đích thân thẩm vấn các phạm nhân, thảy đều nói áo quần người chết mặc đúng như đêm qua ông thấy. ông càng tin là thật, dựa vào lời ma mà xét lại A có tội. Viên quan sơ thẩm nhiều lần đề đạt giải thích nhưng ông không nghe. Sau đó sư da (người giúp việc) đến cầu kiến, biết đầu đuôi câu chuyện, liền phản bác: “Đã là ma thì chỉ có bóng, không có thực thể, nó rời đi phải là nhanh chóng mà biến mất. Không thế là trèo qua tường. Đó chắc chắn là phạm nhân mướn bọn đạo tặc biết trèo tường vượt rao làm chuyện này”. Đường Chấp Ngọc nghe vậy bỗng hiểu ra, thế là vẫn giữ lại phán quyết của viên quan sơ thẩm.
Tên tội phạm để rửa sạch tội lỗi và vu vạ cho người khác mà nói ra chuyện quỷ thần. Đường đường một tổng đốc công mắc lừa. May mà sư da từ cái vô lí mà biết tỏng âm mưu của bọn sát nhân, khiến chúng thất bại.

Trên thực tế, hầu hết các nhà đầu tư là người làm kinh tế liên quan đến may rủi nhiều, nên rất thích nghe đến nhũng chuyện về tâm linh hay huyền bí như phong thuỷ, dịa lý, hướng nhà hướng gió ….rồi các quan hệ kiêng kỵ do tập tục văn hoá đem lại, nếu chúng ta khéo léo vận dụng rất có lợi thế trong thuyết trình dự án. Tuy nhiên cần nghiên cứu sâu, kỹ lĩnh vực mình thể hiện,nếu không sẽ lộ tẩy cái đuôi dốt nát gây phản cảm hơn nhiều do nói nhăng nhít lung tung.

25. DỰA VÀO CẢM TÌNH

Tình cảm là sự thể nghiệm chủ quan và phản ánh do sự vật nhất định dẫn tới Khi một người có thái độ theo chiều hướng hoan nghênh với sự vật nào đó anh ta tiếp xúc với sự vật này sẽ sinh ra tình cảm khẳng định như vui mừng, thích thú. Khi một người có thái độ phản đối hoặc cự tuyệt với một sự vật nào đó, anh ta tiếp xúc với sự vật này sẽ nãy sinh tình cảm như ghét bỏ, giận buồn. Khi Kẻ ngụy biện trình bày quan điểm của mình hoặc phản bác chủ trương của người khác thì không nêu sự thực nói lí lẽ, mà chỉ là lấy tình cảm yêu ghét của mình làm căn cứ luận chứng. Nếu là người mình yêu thích thì lời nới là chân lí, nếu là người mình chán ghét lời nói ra thảy đều giả dối. Đó chính là ngụy biện kiểu Dựa vào cảm tính.
Ngu Nột thời Nam Triều có thể coi là một điển hình như vậy. Một lần có chàng trai là Trương Suất đưa bài văn của mình cho ông ta nhận xét. Ngu Nột đâu có coi anh chàng vô danh tiểu tốt Trương Suất ra gì ? ông ta lơ đễnh giở qua mấy trang sau đó nói một cách ngạo mạn:
“Những cái này thật chẳng ra sao, thế mà đưa cho tôi xem ư? “
Thực tế thì bài văn của Trương Suất viết rất khá nên nghe Ngu Nột nói vậy thì anh ta không bằng lòng. Một thời gian sau, anh ta lại đưa sáng tác của mình cho Ngu Nột xem, lần này thì anh ta nghĩ ra một kế, nói dối đây là tác phẩm của nhà văn Thẩm Uớc. Ngu Nột nghe bảo là tác phẩm của nhân sĩ quyền uy thì vội xem với một thái độ khác, vừa đọc vừa khen:
“Ngòi bút của nhà văn nối tiếng quả thật khác thường !”
Trương Suất thấy thái độ của Ngu Nột như vậy thì không kìm nổi mà nói: “Thưa tiên sinh, thực ra đây là bài văn của cái người ông nói là không đáng một xu viết ra đây ạ!”
Ngu Nột nghe vậy thì vô cùng bối rối khó xử.
Vốn là đánh giá một bài văn hay hoặc dở thì phải lấy cái tốt xấu của nội dung tư tưởng bài văn và cái cao thấp của phương pháp viết văn làm tiêu chuẩn, bất kể đó là tác phẩm của người nổi tiếng hay vô danh tiểu bối. Thế mà Ngu Nột lại không thế, ông ta nói tác phẩm của vô danh tiểu bối là “cái thứ không ra gì”, còn khi nghe bảo là của người nổi tiếng thì ca ngợi là “quả thật khác thường”. Phương pháp luận chứng này của ông ta rõ ràng là ngụy biện kiểu Dựa vào cảm tình.
Nhưng trường hợp lấy cảm tình mà chi phối sự phán đoán của mình thật không hiếm. Chẳng hạn những trường hợp sau:
– Hít le, tên trùm Nadi chống lại thuyết tương đối không phải là căn cứ vào bản thân thuyết này có phải là khoa học hay không, mà là do Einstein – nhà khoa học phát minh thuyết này là người Do Thái – đối tượng bọn Nadi căm ghét,
– Người yêu Hàn Dũ vì Hàn Dũ là đại văn hào đứng đầu bát đại gia Đường – Tống và nếu có ai bảo Hàn Dữ mắc bệnh hoa liễu thì chắc chấn sẽ bị họ mắng là nói láo;
– Người sùng bái Đường Thái Tông vì Đường Thái Tông là hoàng đế anh minh – Trinh Quán chi trị, và nếu có ai bảo anh ta rằng Đường Thái Tông đã giết anh mình mà lên ngôi vua thì sẽ bị họ coi là hoàn toàn sai lầm;
– Có người nhân vì Bacon làm quan không thanh liêm, từng bị bãi chức vì nhận hối lộ mà đã cự tuyệt thừa nhận giá trị các trước tác học thuật của Bacon;
– Do La Quán Trung trong Tan Quốc diễn nghĩa đã bôi nhọ Tào Tháo mà nhiều người xem xong tiểu thuyết, do bị cảm nhiễm mà đã phủ nhận những thành tựu của ông ta trong văn học sử;
Những ví dụ liệt kê chính là chỉ lấy cảm tình tốt xấu của mình đối với người khác để thay cho sự phán đoán đối với sự vật khách quan. Đó chính là ngụy biện kiểu Dựa vào cảm tình.
Rất nhiều sự thực mách bảo chúng ta rằng lời người được yêu thích không phải đều là quý và giá trị, có thật cũng có cả giả đấy; ngược lại, lời người mà ta căm ghét cũng chưa chắc đều là giả dối, thường là có giả, cũng có thật. Nếu cảm tình của một người mà thao túng lí trí, ngay cả sự thực cơ bản, quy tắc logic cơ bản cũng không đếm xỉa thì không tránh khỏi sa vào ngụy biện.

26. ĐOÁN ĐỊNH CHỦ QUAN

ý thức chủ quan của con người do ảnh hưởng bởi biết bao nhân tố, có lúc không phù hợp với khách quan thế nhưng, có kẻ ngụy hiện trong quá trình biện luận không xuất phát từ thực tế khách quan mà chỉ dựa vào suy nghĩ chủ quan để đưa ra đoán định về sự vật khách quan, lấy mong muốn chủ quan hoặc thành kiến cá nhân để luận chứng tính chân thực của luận đề. Đó chính là ngụy biện kiểu Đoán định chủ quan.
Hàn Phục Cừ trong truyện Hàn Phục Cừ xử trộm cắp chính là vậy:
Tlên quân phiệt Sân Đông là Hàn phục Cừ, y là một tên thô lỗ vô học. Nhưng để tỏ ra mình công chính liêm minh, xét án như thần, thì thường hay tự thụ lí các vụ án. Hắn ta định án hoàn toàn không theo pháp luật, mà là cứ phán bừa, xử theo ý thích.
Một lần, Hàn phục Cừ mặc bộ thường phục, dạo phố để thị sát dân tình. Vừa vặn gặp hai tên trộm cắp bị bắt. Hắn bèn lệnh cho sĩ quan trực ban: “Đưa tên ăn trộm qua đây” bọn ăn trộm bị giải đến. Họ Hàn chỉ một tên trong đó:
“Mày trộm gì ? “
“Dạ tiểu nhân trộm một con bò “.
“ờ ! Còn khá. Bò lặng thinh, mày ăn trộm nó, nó không la lên, nói lên là cái gan ăn trộm của mày không ghê gớm gì. Thả nó ra! “
Hàn Phục Cừ lại hỏi tên kia:
“Mày trộm cái gì ?”
“Tiểu nhân trộm một con gà “.
“Hay cho thằng trộm gà ! Mày biết tội chưa ?”
Tiểu nhân biết tội ạ “
“Hừ! Tội mày to lắm. Con gà mày bắt nó sẽ kêu quang quác. Mày dám trộm gà thì cái gì mà không dám trộm hả? Lôi ra ! Xử bắn !”
Mọi người đều biết con bò có giá hơn con gà, bởi vậy tội của tên trộm bò nặng hơn nhiều so với tên trộm gà. Thế mà, tên quân phiệt nọ không căn cứ vào tình tiết nặng nhẹ để xử, mà là căn cứ vào “bò không kêu” và “gà biết kêu” để xác định mức tội nặng nhẹ tên trộm bò vô tội, tên trộm gà bị bắn. Cái cung cách xử án dựa vào Đoán định chủ quan này không chỉ là vô lí đến buồn cười, mà còn là ngụy biện làm đảo lộn trắng đen. Đó chính là ngụy biện kiểu Đoán định chủ quan.
Ngụy biện kiểu Đoán định chủ quan sở dĩ vô lí, nguyên nhân là luận cứ của kẻ ngụy biện chỉ là sự đoán định chủ quan cho là đường nhiên. Loại luận cứ này thật không đáng tin cậy, dùng luận cứ như vậy là để đạt mục đích luận chứng cho quan điểm của họ một cách ngang trái.

27. MƯỢN CỚ KHÔNG BIẾT

Có những người ngụy biện khi vi phạm pháp quy thì thường mượn cớ nói: “Tôi không biết, người không biết không có tội mà ! ” để rồi giải thích cho mình. Loại ngụy biện này là ngụy biện kiểu Mượn cớ không biết. Ví dụ:
A và B là những thanh niên hiếu thắng cùng thách nhau đấu vật, nhưng trước hết, họ lập một giao ước “trong thi đấu, nếu có bề gì, thậm chí chết người thì đều không được truy cứu trách nhiệm “. Kết cục là do. A không thận trọng mà dẫn đến cái chết của B. Sau đó, A bị tòa án xét xử. Trên tòa, A hùng hồn nới:
“Tôi không biết là đã lập giao ước rồi mà nhỡ đánh chết người vần bị tòa án quy tội. Bới vậy, tôi không phải chịu tội ! “
Đó chính là ngụy biện kiểu Mượn cớ không biết.
Ngụy biện kiểu Mượn cớ không biết là vô lí, bởi vì không biết một sự vật nào đó tồn tại không có nghĩa là sự vật đó không tồn tại. Không biết điều luật nào đó không có nghĩa là người này không bị ràng buộc bởi quy định của điều luật này.
Dù là loại ngụy biện này xem ra thì vô lí đến buồn cười, nhưng kẻ ngụy biện thắng bằng cách đó đâu có hiếm gì.
ở Nhật Bản từng xảy ra một chuyện thế này. Một người đi săn mang bộ da cáo ra hiệu da lông thú để bán. Nhưng căn cứ vào “Quy định thi hành luật săn bắn” thì cáo là động vật hoang dã cấm săn. Cảnh sát phát hiện người thợ săn nọ không hiểu luật pháp liền đưa tới sở cảnh sát, xử phạt tiền. Người thợ săn không phục, phản bác lại:
“Việc không được bắt cáo thì tôi cũng biết, thế nhưng, đây tôi bắt con cầy, pháp luật đâu có quy định không được bắt cầy nào ? “
“ô!” Cảnh sát lúc này mới ngớ ra. Nhưng rồi họ phản kích lại: “Cáo và cầy là cùng loại, cho nên cầy cũng trong hạng mục cấm săn bắt ! “
Thế nhưng, người thợ săn vẫn ngoan cố, nói rằng không biết đây là cáo và kiên quyết không nộp phạt. Vụ án này đành phải chuyển qua tòa án.
Trong lần xử sơ thầm rồi phúc thẩm, người thợ săn đều bị coi là có tội.
Bởi vì nhà động vật học giám định cáo và cây là cùng loại. Nhưng với tiền đề cáo cầy cùng một loại thì vụ án này chuyển tới tòa án tối cao lại xử người thợ săn là vô tội. Nguyên nhân xử bị cáo vô tội là:
“Cáo và cầy tuy là cùng một loại động vật, nhưng cũng có địa phương gọi tên khác nhau. Bị cáo cho rằng cáo và cầy khác nhau, với những động vật cấm săn bắt mà phân biệt không rõ là không phải cố tình phạm pháp “
Kì thực bắt cáo là bắt cáo, biết cũng thế mà không biết cung thế, đều là vi phạm quy định thi thành luật săn bắt. Thế nhưng, người thợ săn nọ đã chơi cái trò ngụy biện Mượn cớ không biết mà ngang nhiên vô lí.
Với ngụy biện kiểu Mượn cớ không biết, cần phải lấy căn cứ thực mà phản kích đích đáng. Ví dụ, Giôn-đơ nguyên là phân tử Nadi(1), năm 1958 cư trú tại Ca-na-đa. Nhiều năm qua y tung tin đồn nhảm rằng trong Đại chiến thế giới lần thứ hai Nadi đâu có giết hại người Do Thái, chuyện giết hại đó là dựng lên, mục đích là bắt nước Đức phải bồi thường. Thế là, người phụ trách “Hiệp hội kỉ niệm vụ tàn sát Ca-na-đa” năm 1982 tố cáo Giôn-đơ, vạch ra cái tội phao tin phỉ báng. Tòa án đưa ra các tập sách Giôn-đơ đã in, mọi người thấy vậy đều phẫn nộ. Thế nhưng, Giôn-đơ lại bào chữa rằng:
“Căn cứ vào quy định tại điều 177 của bộ luật hình sự Ca-na-đa, chỉ khi biết rõ là tình hình không xác thực mà cố tình phao tin đồn nhảm mới cấu thành tội phạm. Thế nhưng, tôi luôn luôn tin rằng chưa hề xảy ra chuyện thảm sát bởi vậy không phải là đồn nhảm, và vì thế không thể xét tội”.
Bên thưa kiện lập tức phản bác, tội ác “tàn sát” của Na-di ngày nay đã là điều thường thức của cả phụ nữ và trẻ em, bất cứ một người phát triển bình thường nào đều không thể không biết. Giôn-đơ cứng họng. Qua tranh luận liên tiếp ngày 28 tháng 2 năm 1985, tòa án hình sự địa phương Tô-rông-tô tuyên cáo là Giôn-đơ có tội phao tin đồn nhảm.
Đứng trước sự thực đanh thép, trò ngụy biện kiểu Mượn cớ không biết của Giôn-đơ đã hoàn toàn thất bại.

 Trân trọng./.

BỘ PHẬN TRANH TỤNG

——————————-

THAM KHẢO DỊCH VỤ TƯ VẤN LIÊN QUAN:

1. Tư vấn pháp luật lao động;

2. Luật sư riêng cho doanh nghiệp;

3.Tư vấn pháp luật lĩnh vực dân sự;

4. Tư vấn luật hành chính Việt Nam;

5.Dịch vụ Luật sư của LVN Group tư vấn giải quyết tranh chấp tại tòa án.

6. Luật sư tranh tụng tại tòa án và đại diện ngoài tố tụng;