1. Thế nào là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi?
Theo khoản 1 Điều 23 Bộ luật dân sự năm 2015 định nghĩa về người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, cụ thể như sau:
“Điều 23. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
1. Người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”.
Như vậy, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người từ đủ 18 tuổi trở lên, do tình trạng thể chất và tinh thần mà không đủ khăn năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự. Tình trạng thể chất hoặc tinh thần dẫn đến không đủ khă năng nhận thức, làm chủ hành vi có thể là trường hợp cá nhân bất chợt bị tâm thần nhưng chưa đến mức không thể nhận thức, làm chủ hành vi của mình (Ví dụ: Người mắc bệnh Down); người bị tai nạn phải nằm điều trị lâu ngày trong bệnh viện và theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan, trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định pháp y tâm thần, Toà án ra quyết định tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Những người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khác với người mất năng lực hành vi dân sự. Vì người mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng để nhận thức và hành động một cách đúng đắn theo ý chí của mình, nên họ không có đủ khả năng để hiểu và làm chủ được hành vi của mình. Trong khi đó, người có khó khăn trong nhận thức và lám chủ hành vi không mất hoàn toàn khả năng nhận thức, làm chủ hành vi, một phần nào đó họ vẫn hiểu, nhận thực được hành vi của mình nhưng không đầy đủ như người bình thường.
2. Khi nào thì một người được xác định là có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi?
Một người chỉ bị coi là có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khi người này bị Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Như vậy, quyết định của Tòa án là căn cứ, cơ sở để xác định một người có phải là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi không.
Theo khoản 1 Điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có quy định về thẩm quyền của Tòa án:
“Điều 27. Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
1. Yêu cầu tuyên bố hoặc hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. ….”.
Theo Điều 278 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì những người sau đây có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi:
“Điều 376. Quyền yêu cầu tuyên bố một người … có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
1. Người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của Bộ luật dân sự.
2. Người thành niên không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi do tình trạng thể chất, tinh thần nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố họ là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của Bộ luật dân sự”.
Việc quyết định một người có khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quy định tại Điều 378 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, cụ thể như sau:
“Điều 378. Quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
1. Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
2. Trong quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Tòa án phải xác định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
3. Trong quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, Tòa án phải chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”.
3. Căn cứ để tuyên một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
“…theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi ”
Khoản 1 Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2015.
Khi có yêu cầu tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y tâm thần để ra quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Việc tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có thể ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của nhiều người, trước hết là người bị tuyên bố có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi – một số quyền của người này có thể bị hạn chế ví dụ như quyền tham gia vào các giao dịch dân sự. Do đó, Tòa án không thể chỉ dựa vào lời nói, yêu cầu của các bên liên quan mà ra quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Kết luận giám định pháp y thân tầm là cơ sở mang tính khoa học, chính xác nhất để Tòa án dựa vào đấy xem xét một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thật không.
Thủ tục chuẩn bị xét đơn yêu cầu được quy định tại Điều 377 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, cụ thể như sau:
“Điều 377. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu
Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, theo đề nghị của người yêu cầu, Tòa án có thể trưng cầu giám định sức khỏe, bệnh tật của người bị yêu cầu tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc giám định pháp y tâm thần đối với người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Trong trường hợp này, khi nhận được kết luận giám định, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu”.
4. Người giám hộ, chỉ định người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
“Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giảm hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.” Khoản 1 Diều 23 Bộ luật dân sự 2015.
Cùng với việc ra quyết định tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì Toà án phải chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. Trong trường hợp này, mọi giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của cá nhân bị Toà án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi đều phải có sự đồng ý của người giám hộ.
Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
– Người được giám hộ được quy định tại Điều 47 Bộ luật dân sự năm 2015:
“Điều 47. Người được giám hộ
1. Người được giám hộ bao gồm:
a) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ;
b) Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ;
c) Người mất năng lực hành vi dân sự;
d) Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.
– Người Giám hộ được Tòa án chỉ định có thể là cá nhân hoặc pháp nhân.
“Điều 48. Bộ luật dân sự 2015 (Người giám hộ)
1. Cá nhân, pháp nhân có đủ điều kiện quy định tại Bộ luật này được làm người giám hộ.
2. Trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn người giám hộ cho mình thì khi họ ở tình trạng cần được giám hộ, cá nhân, pháp nhân được lựa chọn là người giám hộ nếu người này đồng ý. Việc lựa chọn người giám hộ phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực”.
– Theo khoản 4 Điều 54 Bộ luật dân sự năm 2015:
“Trừ trường hợp áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này, người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi do Tòa án chỉ định trong số những người giám hộ quy định tại Điều 53 của Bộ luật này. Trường hợp không có người giám hộ theo quy định trên, Tòa án chỉ định người giám hộ hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ. Khoản 4 điều 54 Bộ luật dân sự”.
Như vậy, trường hợp vợ là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì chồng là người giám hộ; và ngược lại.
Trường hợp cha và mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.
Trường hợp người thành niên có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.
5. Hủy quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Khoản 2 Điều 23 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
“Khi không còn căn cứ tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.
Như vậy, khi một người không còn căn cứ để tuyên bố có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người này có thể tự yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Ngoài ra, pháp luật còn cho phép những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan hoặc cơ quan tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.
Một người chỉ được coi là đã phục hồi đầy đủ năng lực hành vi dân sự khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. Khi Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì năng lực hành vi dân sự của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sẽ được khôi phục bình thường. Khi đó người này có quyền tham gia xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự.
Trên đây là những tư vấn của chúng tôi về vấn đề của bạn. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và lựa chọn công ty Luật LVN Group!
Trân trọng./.