1. Mở đầu vấn đề

Nói theo nghĩa rộng, mổ thức quản lý tốt nhất thường được sử dụng có thể định nghĩa như sau:

Trong thể chế quản lý đó, công nhân phát huy tính tích cực đến mức cao nhất, đồng thời nhận được sự khích lệ đặc biệt hoặc sự trả công từ người chủ của họ. Mô thức quản lý đó là mô thức quản lý tốt nhất thường được sử dụng. Taylor đã thực hiện một nhiệm vụ nặng nề là thông qua những biện pháp đầy sức thuyết phục, chứng minh rằng còn có một mõ thức quản lý khác tốt hơn nhiều lần so với mô thức quản lý “tính tích cực cộng với tính khích lệ’’.

Trong mô thức quản lý cũ, mỗi thành tích hầu như đều dựa vào tính tích cực của công nhân nhưng việc thật sự có được tính tích cực đó là điều hiếm hoi. Cơ chế quản lý một cách khoa học so với cơ chế quản lý cũ có thể làm cho tính tích cực của công nhân được phát huy với sự nhất trí và trên phạm vi rộng lớn hơn (tức là công nhân sẽ chịu khó làm việc bằng thiện chí và tài trí thông minh của họ). Ngoài sự cải tiến đó của công nhân, người giám đốc cũng gánh vác trách nhiệm nặng nề mới, nhiệm vụ và chức trách mới. Đó là điều mà trước kia người ta chưa hề nghĩ đến.

 

2. Frederick Winslow Taylor

Vào đầu thế kỷ XX, lý luận quản lý một cách khoa học đã ra VX đời ở Mỹ. Đại diện chủ yếu của lý luận này là Frederick Winslow Taylor, người được các học giả về quản lý ở địa phương.

Frederick Winslow Taylor (20 tháng 3 năm 1856 – 21 tháng 3 năm 1915) là một kỹ sư cơ khí người Mỹ . Ông được biết đến rộng rãi nhờ các phương pháp nâng cao hiệu quả công nghiệp. Ông là một trong những nhà tư vấn quản lý đầu tiên. Taylor là một trong những nhà lãnh đạo trí thức của Phong trào Hiệu quả và những ý tưởng của ông, được quan niệm rộng rãi, có ảnh hưởng lớn trong Kỷ nguyên Tiến bộ (những năm 1890 – 1920). Năm 1911, Taylor đã tổng kết các kỹ thuật hiệu quả của mình trong cuốn sách Các nguyên tắc quản lý khoa học , năm 2001, nghiên cứu sinh của Học viện Quản lý được bình chọn là cuốn sách quản lý có ảnh hưởng nhất thế kỷ XX. Công việc tiên phong của ông trong việc áp dụng các nguyên tắc kỹ thuật vào công việc được thực hiện trên sàn nhà máy là công cụ tạo ra và phát triển ngành kỹ thuật mà ngày nay được gọi là kỹ thuật công nghiệp . Taylor đã làm nên tên tuổi của mình, và tự hào nhất về công việc của mình, trong quản lý khoa học; tuy nhiên, ông đã thực hiện tài sản của mình bằng sáng chế cải tiến quy trình thép. Taylor cũng là một vận động viên thi đấu quần vợt quốc gia.

Taylor sinh năm 1856 trong một gia đình Quaker ở Germantown, Philadelphia, Pennsylvania . Cha của Taylor, Franklin Taylor, một Luật sư của LVN Group được đào tạo tại Princeton , đã xây dựng tài sản của mình bằng các khoản thế chấp . Mẹ của Taylor, Emily Annette Taylor (nhũ danh Winslow), là một người theo chủ nghĩa bãi nô hăng hái và là đồng nghiệp với Lucretia Mott . Tổ tiên của cha anh, Samuel Taylor, định cư ở Burlington, New Jersey , vào năm 1677. Tổ tiên của mẹ anh, Edward Winslow, là một trong mười lăm người Hành hương Mayflower ban đầu mang theo người hầu hoặc trẻ em, và là một trong tám người có danh hiệu Mister. Winslow phục vụ trong nhiều năm với tư cách là Thống đốc của thuộc địa Plymouth.

Được mẹ dạy dỗ từ sớm, Taylor đã học hai năm ở Pháp và Đức và đi du lịch châu Âu trong 18 tháng. Năm 1872, ông vào Học viện Phillips Exeter ở Exeter, New Hampshire , với kế hoạch cuối cùng sẽ đến Harvard và trở thành một Luật sư của LVN Group giống như cha mình. Năm 1874, Taylor đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh Harvard với danh hiệu xuất sắc. Tuy nhiên, do thị lực bị suy giảm nhanh chóng, Taylor đã chọn một con đường khá khác.

Thay vì theo học Đại học Harvard , Taylor trở thành một thợ máy và thợ máy học việc, tích lũy kinh nghiệm tại xưởng thủy lực Enterprise ở Philadelphia (một công ty sản xuất máy bơm có chủ sở hữu là bạn của gia đình Taylor). Anh bỏ dở việc học việc của mình trong sáu tháng và đại diện cho một nhóm các nhà sản xuất máy công cụ ở New England tại hội chợ trăm năm của Philadelphia. Taylor hoàn thành khóa học việc bốn năm và năm 1878 trở thành công nhân xưởng máy tại Midvale Steel Works . Tại Midvale, anh nhanh chóng được thăng chức làm thư ký thời gian, thợ máy hành trình, trùm băng đảng tay máy tiện, quản đốc xưởng máy , giám đốc nghiên cứu, và cuối cùng là kỹ sư trưởng của công trình (trong khi vẫn giữ chức vụ quản đốc xưởng máy). Sự thăng tiến nhanh chóng của Taylor phản ánh cả tài năng và mối quan hệ của gia đình anh với Edward Clark, chủ sở hữu một phần của Midvale Steel. (Con trai của Edward Clark, Clarence Clark , người cũng là quản lý của Midvale Steel, đã kết hôn với chị gái của Taylor.)

Như vậy, Taylor được mệnh danh là người cha của lý luận quản lý một cách khoa học. Ông sinh ra trong một gia đình Luật sư của LVN Group giàu có. Năm 18 tuổi, ông thi đỗ vào trường Đại học Harvard với ý định theo học ngành luật như cha mình. Sau đó vì bị bệnh đau mắt và đau đầu do thần kinh, ông phải bỏ học nửa chừng, làm công nhân cơ khí. Do thông minh, cần cù, trong vòng không đầy 10 năm, ông đã trở thành đốc công, kỹ sư trưởng, tổng công trình sư và tự học, thi đỗ bằng đại học kỹ thuật. Ngay lúc còn trẻ tuổi, ông đã quan tâm nghiên cứu vấn đề quản lý xí nghiệp và tiến hành nhiều công trình nghiên cứu thông qua thực tiễn quản lý của mình. Khi đã nhiều tuổi, ông dùng đại bộ phận thời gian để viết sách và thuyết trình, tuyên truyền lý luận quản lý của mình. Năm 1895, ông đã trình bày luận văn đầu tiên của mình tại Hiệp hội kỹ sư cơ khí toàn nước Mỹ. Đó là luận văn “Chế độ trả lương theo số lượng sản phẩm”. Năm 1903, ông xuất bản cuốn “Quản lý ở nhà máy”. Năm 1911, ông xuất bản cuốn sách nổi tiếng mang tên “Những nguyên lý của việc quản lý một cách khoa học”. Năm 1912, ông đã trình bày tại Quốc hội Mỹ một số vấn đề về việc quản lý một cách khoa học và đó là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong việc nghiên cứu công tác quản lý một cách khoa học của ông.

 

3. Nguyên lý quản lý khoa học

Taylor quy nạp cơ chế quản lý một cách khoa học trong những nguyên lý sau đây:

Một là, nghiên cứu một cách khoa học mỗi động tác của công nhân đổ thay thê cho cách làm cũ là chỉ đơn thuần dựa vào kinh nghiệm.

Hai là, tuyển chọn công nhân một cách khoa học, đào tạo và giáo dục họ, giúp họ trưởng thành. Còn cách làm cũ là để công nhân chọn việc làm theo ý họ và căn cứ vào khả năng của từng người để tự đào tạo.

Ba là, hiệp tác thân ái với công nhân để bảo đảm cho tất cả công việc đều thực hiện theo những nguyên tắc khoa học đã được xây dựng.

Bốn là, chủ và thợ phải cùng nhau chia sẻ công việc và chức trách. Phía chủ phải gánh vác phần việc quan trọng hơn của mình, không đẩy hết mọi việc và phần lớn chức trách về phía công nhân như trước kia.

Do tính tích cực của công nhân được phát huy bằng cách đó và phía chủ áp dụng phương pháp làm việc kiểu mới nên hiệu quả quản lý tốt hơn nhiều so với cơ chế cũ.

Taylor đã thông qua một loạt ví dụ thực tế để chứng minh sức mạnh to lớn và hiệu quả của cơ chế quản lý này, một cơ chế quản lý thích hợp với tất cả các loại công việc, từ công việc cơ bản nhất đến công việc phức tạp nhất. Hơn nữa, khi được áp dụng, thành quả thu được tất nhiên sẽ lớn hơn rất nhiều so với cơ chế quản lý “tính tích cực cộng với sự khích lệ”.

 

4. Lý thuyết quản lý của Taylor

Theo từ điển Bách khoa, Taylor nghĩ rằng bằng cách phân tích công việc, “một cách tốt nhất” để làm điều đó sẽ được tìm thấy. Ông được nhớ đến nhiều nhất vì đã phát triển nghiên cứu thời gian của đồng hồ bấm giờ, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu chuyển động của Frank Gilbreth, sau này trở thành lĩnh vực nghiên cứu thời gian và chuyển động .

Ông đã chia một công việc thành các bộ phận cấu thành của nó và đo từng phần một. Một trong những nghiên cứu nổi tiếng nhất của ông liên quan đến xẻng. Ông nhận thấy rằng các công nhân sử dụng cùng một cái xẻng cho tất cả các vật liệu.

Ông xác định rằng tải trọng hiệu quả nhất là 21 ½ pound, và đã tìm ra hoặc thiết kế những chiếc xẻng để mỗi loại vật liệu sẽ xúc được số lượng đó.

Nhìn chung, ông đã không thành công trong việc áp dụng các khái niệm của mình và bị sa thải khỏi Công ty Sắt Bethlehem / Công ty Thép Bethlehem. Tuy nhiên, Taylor đã có thể thuyết phục những người lao động sử dụng xẻng và tiền lương của họ gắn liền với số tiền họ sản xuất áp dụng lời khuyên của ông về cách tối ưu để xẻng bằng cách chia nhỏ các chuyển động thành các thành phần của chúng và đề xuất các cách tốt hơn để thực hiện các chuyển động này. Phần lớn là nhờ nỗ lực của các đệ tử của ông (đáng chú ý nhất là của Henry Gantt ) mà ngành công nghiệp đã thực hiện ý tưởng của ông. Hơn nữa, cuốn sách anh viết sau khi chia tay công ty quản lý cửa hàng ở Bethlehem , bán rất chạy.

 

5. Kết thúc vấn đề

Bốn nguyên lý nói trên ở mục 3 là một thể thống nhất, liên quan mật thiết với nhau. Trung tâm của nó là khoa học hóa quá trình tác nghiệp và thông qua con đường khoa học hóa quá trình tác nghiệp đê nâng cao năng suất lao động, coi việc khoa học hóa quá trình tác nghiệp là một bộ môn khoa học.

Để đảm bảo quán triệt phương pháp tác nghiệp khoa học, cần phải lựa chọn những công nhân phù hợp với công việc của họ, khiến cho họ từng bước thích ứng với phương pháp tác nghiệp khoa học, đồng thời phải hướng dẫn. giúp đỡ họ, thiết lập quan hệ hợp tác tốt giữa cóng nhân và những người quản lý, áp dụng những biện pháp nhằm huy động tính tích cực của công nhân trong việc ứng dụng phương pháp làm việc khoa học.

Chỉ có như vậy mới có thể làm cho phương pháp thao tác khoa học và công nhân thật sự hợp thành một khối. Để bảo đảm cho những nguyên lý nói trên có thể thực hiện được, cần phải tiến hành một khối lượng lớn công việc quán lý. Theo ý kiến của Taylor, chí có nhân viên quản lý (người lao động trí óc) mới có điều kiện thực hiện những nhiệm vụ mà cơ chế quản lý một cách khoa học kể trên đòi hỏi. Điều đó có nghĩa là phải chuyển trách nhiệm về quản lý từ phía công nhân sang phía nhân viên quản lý, thực hiện nguyên tắc tách biệt chức năng quản lý với chức năng tác nghiệp, cũng tức là tách biệt chức năng kế hoạch với chức năng thừa hành, thiết lập thể chế phân cóng giữa chức năng quản lý (kế hoạch) với chức nàng tác nghiệp (thừa hành).

Trân trọng!