1. Văn bản pháp luật

Thuật ngữ “văn bản pháp luật” được nhìn nhận ở những góc độ sau:

– Thứ nhất, nó có nghĩa là hoạt động (hành vi). Chẳng hạn như: hoạt động hợp pháp, hoạt động không hợp pháp (ví dụ: văn bản thực hiện pháp luật được thể hiện ở việc không tuân theo điều cấm, ở việc không thực hiện hoặc việc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ, ở việc lạm quyền). Khái quát lại, những hoạt động như vậy được gọi là các sự kiện pháp lý kéo theo những hậu quả pháp lý tương ứng. Do đó, tốt nhất nên gọi các văn bản pháp lý thê’ hiện hành vi hợp pháp được thực hiện với dự định tạo ra (thay đổi, chấm dứt) các quan hệ pháp luật một cách cụ thể là “các văn bản hợp pháp”.

– Thứ hai, các văn bản pháp luật bao gồm cả các kết quả của các hoạt động hợp pháp, lẫn các kết quả của các hoạt động trái pháp luật. Đối vói các kết quả của các hoạt động hợp pháp được thể hiện trong những yếu tố nội dung có ý nghĩa về mặt pháp lý của hệ thống pháp luật, đó là về các quy phạm pháp luật được thể hiện trong các đạo luật và các văn bản dưới luật; về các quy định cá biệt được thể hiện trong các văn bản áp dụng pháp luật; về các bản hợp đồng, các bản thỏa thuận và các văn bản điều chỉnh khác do các chủ thể kinh doanh khác nhau và công dân ký kết, v.v. (hợp đồng mua bán, văn bản tặng, cho, v.v..). Tuy vậy, trong đời sống pháp luật có không ít kết quả của các hoạt động vi phạm pháp luật một cách công khai, đó là các quy định vi phạm hiến pháp trong các luật của Quốc hội, pháp lệnh của ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ, ngành, V.V.; nhiều quy định cá biệt trái luật của những người có chức vụ, quyền hạn (ví dụ: quyết định bổ nhiệm trái pháp luật, quyết định buộc thôi việc trái pháp luật); các hợp đồng vi phạm pháp luật. Các kết quả của cả các hoạt động hợp pháp, lẫn của các hoạt động trái pháp luật “được đưa” vào hiện thực pháp luật do có hoạt động xây dựng pháp luật, hoạt động áp dụng pháp luật cá biệt khác nhau của các chủ thể.

– Thứ ba, có thể hiểu văn bản pháp luật là cả các tài liệu pháp lý, tức là sự thể hiện bên ngoài của ý chí được diễn đạt bằng từ ngữ và bằng tài liệu, sự thể hiện việc ghi nhận hành vi hợp pháp hoặc hành vi vi phạm pháp luật và kết quả tương ứng. Văn bản – tài liệu hợp pháp – là sự thê’ hiện bên ngoài bằng văn bản ý chí của nhà nước, của các cơ quan nhà nước, của những người có thẩm quyền cụ thể, sự thê’ hiện với tư cách là người thê’ hiện các yếu tố nội dung của hệ thống pháp luật – các quy phạm pháp luật, các luận điểm pháp luật, các quy định cá biệt, các quyết định khác của những người có thẩm quyền.

2. Văn bản – tài liệu pháp luật

Văn bản – tài liệu pháp luật là hiện thực pháp luật “sờ mó được”, thông qua hiện thực này mọi người thu nhận được những hiểu biết đầu tiên về pháp luật, về tổng thể các hiện tượng pháp luật, và do đó, có thể coi hiện thực này là một dạng nguồn thông tin cơ bản về các quy phạm, các mệnh lệnh cá biệt, các quan hệ pháp luật. Các tài liệu pháp luật tồn tại với tư cách là các phân đoạn của thế giới vật lý. Vì vậy, chúng có thể được cảm giác của con người tiếp nhận trực tiếp và đưa ra các thông tin xuất phát điểm, đầu tiên về pháp luật và hiện thực pháp luật.

Hiện thực pháp luật đã được phức tạp hóa đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ hơn các mối liên hệ phụ thuộc của các văn bản pháp luật, cân nhắc một cách toàn diện sự đa dạng của các mối quan hệ bên trong giữa chúng. Chính do tính chất hệ thống của các văn bản pháp luật mà các loại văn bản pháp luật gắn liền chặt chẽ với nhau. Và ngược lại.

Ví dụ: Văn bản quy phạm, như đã rõ, là cơ sở của các văn bản áp dụng pháp luật, giải thích pháp luật và hợp đồng cá biệt.

Do đó, một mặt, những sai lầm diễn ra trong quá trình xây dựng pháp luật khí ban hành văn bản quy phạm, tất yếu, sẽ kéo theo những sai lầm trong áp dụng pháp luật, trong giải thích pháp luật và trong điều chỉnh pháp luật.

Hơn nữa, các văn bản quy phạm pháp luật “mạnh khỏe” sẽ ảnh hưởng tích cực đến hệ thống văn bản pháp luật còn lại. Việc chiếm ưu thế trội hơn của các loại văn bản quy phạm so với các loại khác trong những tình huống nhất định sẽ dẫn đến “sự rối loạn” của toàn bộ hệ thống pháp luật, của tổng thê’ các văn bản pháp luật, đến “chiến tranh của các văn bản pháp luật”.

Mặt khác, những thiếu sót, sai lầm trong các văn bản áp dụng pháp luật, các văn bản giải thích pháp luật và các văn bản họp đồng có thể làm tê liệt hoặc làm sai lệch hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật.

Tiếp đến, sự phát triển không hợp lý của cùng một loại văn bản có thể dân đến sự lấn át không có căn cứ các loại văn bản pháp luật khác. Ví dụ, việc ban hành quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành pháp dẫn đến việc làm giảm vai trò của các văn bản luật.

Một trong những phưong thức quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả của chính sách pháp luật Việt Nam hiện nay là trật tự hóa các văn bản pháp luật, đưa chúng vào một chỉnh thể thống nhất không có mâu thuẫn với sự trợ giúp của việc kết hợp mang tính hệ thống. Ở đây xuất hiện nhu cầu soạn thảo và ban hành một đạo luật riêng “về hệ thống các văn bản pháp luật”.

3. Nguyên tắc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật

Hệ thống văn bản pháp luật cần phải được xây dựng theo nguyên tắc đã được ghi nhận ở khoản 1 Điều 119 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, các văn bản pháp luật của địa phưong phải được xây dựng với tư cách là một tiểu hệ thống (một khối) phù hợp với các văn bản pháp luật của trung ương trong hệ thống các văn bản pháp luật Việt Nam nói chung.

Chỉ khi nào bảo đảm được tính hài hòa, tính cân bằng của tất cả các tiểu hệ thống ở hai mức độ (mức độ địa phương và mức độ trung ương) mới có thể bảo hộ được tính toàn vẹn của chế định các văn bản pháp luật, mới có thê’ bảo đảm được tính hiệu lực, hiệu quả của nó. Khi nào các văn bản pháp luật của một mức độ nào đó bắt đầu “không hòa âm, không đồng điệu” với các văn bản pháp luật của mức độ khác thì điều đó có thê’ dẫn đến sự không đồng bộ của toàn bộ hệ thống, đến sự xung đột, sự mất tính hài hòa bên trong của các yếu tố thuộc hệ thống đó.

Về nguyên tắc, điều có ý nghĩa quan trọng là cần phải ban hành các đạo luật “có hiệu lực trực tiếp” và giảm một cách tối đa các văn bản dưới luật, bởi vì, các mục đích ban hành các đạo luật phần lớn được thực hiện với sự trợ giúp của các văn bản dưới luật, đặc biệt, của các thông tư, nhưng nhiều trường hợp các thông tư được ban hành lại mâu thuẫn với những gì được thê’hiện ở lời văn và tinh thần của các đạo luật.

Bởi vì, các văn bản quy phạm pháp luật, thông thường, thể hiện với tư cách là nền tảng của tất cả các văn bản pháp luật khác, cho nên, cần phải áp dụng các nguyên tắc hệ thống bắt đầu từ các văn bản quy phạm pháp luật.

Hơn nữa, nguyên tắc hệ thống không chỉ được áp dụng đối với các văn bản quy phạm pháp luật, mà còn đối với cả các văn bản áp dụng pháp luật, cũng như các văn bản pháp luật khác. Việc coi thường nguyên tắc đó sẽ dẫn đến những hậu quả tiêu cực. Hoàn toàn đúng đắn khi lưu ý rằng, tất cả các văn bản tố tụng về vụ án bằng cách này hay cách khác đều có mối liên hệ lẫn nhau, và từ quan điểm về bản chất pháp lý và ý nghĩa của chúng, có mối liên hệ vói toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự, giữa quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can và kết luận buộc tội có mối liên hệ đặc thù. Việc so sánh các văn bản nói trên đòi hỏi phải nghiên cứu thông tin chứng cứ được chứa đựng và được sử dụng trong các văn bản đó, làm sáng tỏ một khối lượng thông tin cần thiết – khối lượng thông tin mà theo trật tự bắt buộc được chuyển từ loại văn bản này đến loại văn bản khác và việc vi phạm khối lượng thông tin đó làm cho việc điều tra trở nên không hợp pháp, còn các quyết định được ban hành là các quyết định trái pháp luật (theo V.M. Komukov, V.A. Lazarev: Các khía cạnh pháp luật của tính hệ thống và mõì liên hệ của các văn bản tô’ tụng hình sự về điêu tra vụ án, Chính sách pháp luật và đời sống pháp luật, số 1/2001, tr.139 (bản tiếng Nga).

Thông thường, khi là nền tảng của toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật còn lại, các văn bản quy phạm pháp luật, theo bản chất của mình, thể hiện với tư cách là các cấu thành hệ thống.

Chính các văn bản áp dụng pháp luật và các văn bản giải thích pháp luật phải tuân thủ các văn bản quy phạm pháp luật.

Giữa các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hiệp định có các mối liên hệ phức tạp hơn. Nếu như nói về nội dung quy phạm của các văn bản quy phạm pháp luật với các văn bản hiệp định, thì tất cả tùy thuộc vào hiệu lực pháp lý của các văn bản được so sánh. Chẳng hạn, văn bản công ước quốc tế có thể thuộc các văn bản quy phạm pháp luật bên trong quốc gia. Vị trí thứ bậc của từng nguồn cụ thể của pháp luật quốc tế trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam cần được quyết định trước bởi vị trí của cơ quan quyền lực nhà nước trong thứ bậc các cơ quan và (hoặc) bởi hình thức của văn bản mà bằng văn bản đó thể hiện sự đồng ý về tính bắt buộc của nguồn pháp luật quốc tế tương ứng đối với Việt Nam. Chẳng hạn, các điều ước quốc tế có ý nghĩa bắt buộc đối với Việt Nam được thể hiện dưới hình thức đạo luật có giá trị pháp lý cao hơn các đạo luật quốc gia; các văn bản luật có giá trị pháp lý cao hơn các văn bản quy phạm của các cơ quan hành pháp.

Các hiệp định bên trong quốc gia, thông thường, được ký kết theo một trật tự do các văn bản quy phạm pháp luật của đất nước đó quy định. Nếu như văn bản hiệp định không có tính chất quy phạm thì văn bản đó không được trái với văn bản quy phạm.

Trong điều kiện có sự phân công quyền lực thì các mối liên hệ giữa các văn bản quy phạm pháp luật sẽ đa dạng hơn, hệ thống các văn bản pháp luật sẽ trở nên phức tạp hơn. Ở đây có thể có những phương án tác động khác nhau của các tài liệu quy phạm và các tài liệu cá biệt. Chẳng hạn, Tòa án nhân dân tối cao dựa trên quyết định của mình (văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật) có thể phong tỏa hiệu lực của luật (văn bản quy phạm) trái với Hiến pháp. Chủ tịch nước có thể không phê chuẩn (văn bản áp dụng pháp luật) đạo luật này hay đạo luật khác do Quốc hội thông qua, bằng cách đó làm cho nó không có hiệu lực pháp lý.

4. Bàn luận về hệ thống hóa pháp luật

Việc hệ thống hóa các văn bản pháp luật có thể được tiến hành theo những cơ sở khác nhau. Dựa vào dấu hiệu loại, các văn bản pháp luật được phân thành: các văn bản quy phạm, các văn bản giải thích pháp luật, các văn bản áp dụng pháp luật. Dựa vào tính hệ thống các văn bản pháp luật được phân thành: hệ thống các văn bản pháp luật nói chung và hệ thống các văn bản pháp luật nói riêng. Việc phân loại nói trên sẽ tạo điều kiện cho việc hình thành các mối liên hệ mang tính hệ thống có đầy đủ giá trị và hiệu quả.

Việc hệ thống hóa theo “loại” các văn bản pháp luật khác nhau là hiện tượng không mói, và hiện nay ở nước ta, cho dù chưa phải là lý tưởng, tối tru, nhưng đang được thực hiện tích cực. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay đang được trật tự hóa với sự trợ giúp của các hình thức như tập họp hóa, trật tự hóa, pháp điển hóa.

Tuy vậy, việc hệ thống hóa các văn bản pháp luật chung và việc hệ thống hóa các văn bản pháp luật theo loại là rất cấp thiết trong giai đoạn phát triển hiện nay ở nước ta. Việc hệ thống hóa đó cho phép tạo thành một tuyển tập nhằm mục đích tạo ra sự tiện lợi hơn trong việc nhận thức và áp dụng các văn bản pháp luật. Điều đó thể hiện ở chỗ: (i) tạo ra sự tiện lợi trong nhận thức và áp dụng các văn bản pháp luật theo chủ đề nhất định (các văn bản quy phạm); (ii) tạo ra sự tiện lợi trong thực tiễn áp dụng các văn bản pháp luật (các văn bản áp dụng pháp luật); (iii) tạo ra sự tiện lợi trong thực tiễn giải thích các văn bản pháp luật (các văn bản giải thích pháp luật). Việc hệ thống hóa theo loại chung các văn bản – tài liệu pháp luật là cần thiết không chỉ đối với việc làm trật tự hóa chúng mà còn để đưa ra thông tin pháp luật tốt hơn cho các chủ thê, để nhận thức và áp dụng thống nhất và đúng đắn hơn các mệnh lệnh pháp luật.

Để tiến hành việc hệ thống hóa theo lĩnh vực chung có hiệu quả, điều có ý nghĩa cấp bách hiện nay là cần phải có hiểu biết về khoa học chuyên ngành – khoa học phân loại các văn bản pháp luật. Khoa học này nghiên cứu nhiều vâh đề, trong đó có việc phân loại các văn bản quy phạm pháp luật với tư cách là một bộ phận hợp thành của nó.

Chính sách pháp luật có thể được thể hiện cả trong các văn bản pháp luật mềm. Các văn bản pháp luật đó được thể hiện trong các hệ quan điểm, các thông điệp, các chiến lược, các chương trình, v.v. và thường nhận được “phiếu đi vào đời sống pháp luật” từ Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Các văn bản như vậy không có yếu tố mang tính mệnh lệnh và việc áp dụng chúng trước hết dựa trên uy tín của các chủ thể đưa ra các văn bản đó.

Một trong những điều kiện cần thiết bảo đảm tính hiệu lực của chính sách pháp luật Việt Nam là hình thành một không gian thông tín pháp luật thống nhất trong cả nước (chẳng hạn, thực thi yếu tố quan trọng nhất của nó là hệ thống phân loại các văn bản pháp luật với tư cách là một trật tự, chế độ bắt buộc). Việc thực thi hệ thống phân loại các văn bản pháp luật sẽ bảo đảm được mức độ thông tin lớn nhất cho các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội nói chung cũng như cho từng công dân nói riêng, tính được tiếp cận các văn bản pháp luật đối với tất cả những ai quan tâm. Trong giai đoạn hiện nay, sự hình thành và thiết lập không gian pháp luật như vậy là đặc biệt cần thiết để bảo đảm tính hài hòa, tính không có mâu thuẫn, tính hoàn thiện của các văn bản pháp luật được ban hành ở nước ta. Do đó, Quốc hội cần ban hành luật “về các loại văn bản pháp luật”.

5. Kết thúc vấn đề

Như vậy, trong giai đoạn phát triển hiện nay của hệ thống pháp luật Việt Nam, những vấn đề về trật tự hóa các văn bản pháp luật, sự hình thành các mối liên hệ chức năng – cấu trúc có giá trị đầy đủ giữa chúng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn và ngày càng đòi hỏi phải có quyết định kịp thời của mình. Các hạn chế của pháp luật hiện nay (tính không bảo đảm các quy định, tình trạng có các xung đột pháp lý, các chỗ hổng…) là hậu quả của việc chưa giải quyết được những vấh đề đó. Rõ ràng là việc soạn thảo có cơ sở khoa học về những vấn đề đang nói ở đây sẽ giúp cho quá trình “bình phục” pháp luật và xây dựng chính sách pháp luật có hiệu quả ở nước ta.

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Luật LVN Group (Sưu tầm và Biên soạn).