I. Giới thiệu Nhà triết học Gian Giắc Rútxô
Gian Giắc Rútxô sinh ra ở Geneve, lúc đó là một thành phố kiêm quốc gia và là một thành phần của Liên minh Tin lành trong liên bang Thụy Sĩ. Kể từ năm 1536, Geneva đã là quốc gia Huguenot và là cội nguồn của thần học Calvin. Năm thế hệ trước của Rousseau là ông cố Didier, một người bán sách có thể đã xuất bản các tác phẩm Kháng Cách, để tránh bị Công giáo Pháp truy tố, đã chạy trốn tới Geneve vào năm 1549, tại đó ông đã trở thành một thương gia buôn rượu vang.
Gian Giắc Rútxô sinh năm 1712 trong một gia đình thợ thủ công làm đồng hồ ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ). Ông nội của ông là người Pháp. Mẹ mất sớm, trong khi bố ít quan tâm giáo dục con trai, cho nên khi 16 tuổi, Rútxô đã rời Giơnevơ đi phiêu bạt khắp Thụy Sĩ, Italia, Pháp, làm nhiều nghề khác nhau để kiếm sống, thậm trí có thời gian ông phải làm hầu bàn. Nhưng cũng chính trong thời gian này ông đặc biệt say mê nghiên cứu các vấn đề triết học và nghệ thuật, kết bạn với Điđrô, tham gia cộng tác với nhóm biên soạn Bách khoa toàn thư một thời gian. Từ năm 1770 ông sống độc thân ở Pháp cho đến khi chết. Gian Giắc Rútxô có nhiều tác phẩm nổi tiếng như Suy diễn về nguồn gốc và cơ sở của sự bất bình đẳng (1755), Bàn về khế ước xã hội (1761)…
Với Geneve, trên lý thuyết, được quản lý một cách dân chủ nhờ những “công dân” nam giới có quyền biểu quyết. Những công dân này là một thiểu số dân số khi so sánh với những người nhập cư. Họ được nhắc đến như là những “cư dân”, dòng dõi của họ được gọi là “người địa phương” và vẫn không có quyền bầu cử. Thực tế, cả thành phố Geneva lúc đó được cai trị bởi một hiệp hội của vài gia đình giàu có với tên “Hội đồng Hai Trăm”. Những gia đình này trao quyền cho một nhóm 25 thành viên quản trị lấy từ những gia đình trên, với tên là “Tiểu Hội đồng”.
Có nhiều tranh luận chính trị trong Geneva bao gồm cả những thương nhân. Nhiều cuộc thảo luận đã tranh luận về tính hợp pháp của quyền lực những Hội đồng trên có được, nội dung tranh luận thường bị giới cầm quyền chế giễu. Trong năm 1707, một người cải cách dân chủ tên Pierre Fatio phản ứng, nói rằng “một quyền lực tối cao mà không có hành động tương xứng thì chỉ là một ảo tưởng”. Fatio sau đó bị bắn theo lệnh của Tiểu Hội đồng. Cha của Jean-Jacques Rousseau, Isaac, lúc đó không có mặt trong thành phố, nhưng ông nội của Gian Giắc Rútxô đã ủng hộ Fatio và đã phải trả giá.
Ngôi nhà nơi Gian Giắc Rútxô được sinh ra – số 40, Grand Rue. Việc mua bán đồng hồ đã trở thành một truyền thống gia đình khi cha của Rousseau – ông Isaac đến Geneva. Isaac tiếp quản doanh nghiệp của ông và cha mình, ngoại trừ một thời gian rẽ ngang ngắn ngủi với công việc làm vũ sư. Isaac mặc dù không nổi tiếng trong giới nghệ sĩ, nhưng ông đã được dạy dỗ chu đáo và là một người yêu âm nhạc. “Với tư cách là một thợ sửa đồng hồ ở Geneva”, Gian Giắc Rútxô đã viết, “tôi là một người đàn ông có thể được giới thiệu ở bất cứ đâu, một thợ sửa đồng hồ tại Paris thì chỉ thích hợp để nói chuyện về đồng hồ”. Trong năm 1699, Isaac đã dính vào bê bối chính trị khi cãi cọ với một sĩ quan người Anh, người sau đó đã tuốt kiếm ra dọa ông. Sau khi các quan chức địa phương tới nơi, Isaac đã bị trừng phạt, vì Geneva đặc biệt quan tâm và gìn giữ các liên hệ của thành phố với sức mạnh nước ngoài.
Gian Giắc Rútxô rời Geneva năm 1728 sau nhiều năm học việc nghề thư ký và tới thủ đô Paris năm 1742. Là thư ký cho Đại sứ Pháp tại Venezia từ 1743-1744. Sau đó ông về Pháp và có năm con với Thérèse Levasseur nhưng ông đều bỏ cho trại trẻ mồ côi nuôi. Trong thời gian này ông làm bạn với Diderot và có đóng góp cho tập Bách khoa thư với các bài về âm nhạc và quan trọng nhất là bài về kinh tế chính trị viết năm 1755.
Vào năm 1754, Gian Giắc Rútxô quay về Geneva và bắt đầu cho ra đời tác phẩm Đối thoại về Nguồn gốc và Cơ sở của Sự Bất bình đẳng của Con người năm 1755. Do viết nhiều tiểu thuyết đả kích tôn giáo, ông buộc phải rời sang Bern và Mộtiers (Thụy Sĩ), nơi ông viết Đề án Hiến pháp cho đảo Corse và tiếp tục phải tị nạn với nhà triết học David Hume tại Anh Quốc. Ông về Pháp năm 1767 và cưới Thérèse năm 1768, đến 1770 ông trở về thủ đô Paris. Ông tiếp tục viết nhưng các tác phẩm chỉ được xuất bản sau khi ông qua đời vì xuất huyết não vào ngày 2 tháng 7 năm 1778.
Quan điểm giáo dục của Rousseau được thể hiện qua tác phẩm (cuốn tiểu thuyết) Emile (Ê-min).
Trong đó Tác phẩm Emile trải qua giai đoạn giáo dục đầu tiên đến năm 12 tuổi, giáo dục giai đoạn này về bản chất là hoàn toàn tự nhiên. Giai đoạn hai từ 12 đến 16 là giai đoạn lý tính bắt đầu phát triển. Và giai đoạn cuối cùng là từ 15 tuổi trở đi để đứa trẻ tiếp tục phát triển thành người lớn. Ông cho rằng mục đích của giáo dục là học cách sống và điều này có thể đạt được khi có người bảo trợ chỉ dẫn con đường đi để có cuộc sống tốt đẹp.
Tuy nhiên, quan điểm của Rousseau cho giáo dục trẻ em nữ lại không như vậy. Sophie, người yêu của Emile, được giáo dục để tuân theo sự chỉ bảo của chồng, trong khi Emile được giáo dục để tự quyết định lấy cuộc sống của mình.
II. Tác phẩm Émile hay là về giáo dục (Émile ou de l’éducation)
1. Giới thiệu tác phẩm Émile hay là về giáo dục (Émile ou de l’éducation)
Émile hay là về giáo dục (Émile ou de l’éducation) là sự hoà quyện giữa văn chương và triết lý. Giống như tiêu đề của nó đã chỉ ra, đó là một chuyên luận về giáo dục, hay đúng hơn là một chuyên luận về “nghệ thuật hình thành con người”. Tuy nhiên, cũng có thể coi đó là một tiểu thuyết xã hội – sư phạm với nhân vật hư cấu là cậu bé Émile. Việc giáo dục Émile chỉ nhằm một mục đích: đào tạo một con người tự do, có khả năng tự bảo vệ chống mọi sự gò ép khiên cưỡng; mà muốn đào tạo một con người tự do thì chỉ có một cách duy nhất là đối xử với họ như một sinh thể tự do, tôn trọng tự do của đứa trẻ. Chính ở chỗ này nảy sinh một sai lầm nghiêm trọng trong cách hiểu tác phẩm, tuy rằng nhà triết học Gian Giắc Rútxô đã cẩn thận phân biệt rõ việc tôn trọng các nhu cầu tự nhiên của đứa trẻ (và tự do là nhu cầu đầu tiên trong các nhu cầu đó) với việc thỏa mãn các ham muốn, các ý thích thất thường của trẻ.
Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam có nêu như sau: “Cùng với những vấn đề về giáo dục được đặt ra, nhà triết học Gian Giắc Rútxô phê phán nền giáo dục đương thời đàn áp nhân cách của trẻ, kể cả dùng nhục hình. Nhà triết học Gian Giắc Rútxô cho rằng bản tính con người vốn là thiện, nhưng đã bị xã hội bất bình đẳng huỷ hoại, nên cần xây dựng một nền giáo dục mới, phù hợp với thiên nhiên và bản tính vốn có của con người. Nhân vật chính là Émile – người được hưởng sự giáo dục toàn diện, trong đó thầy tôn trọng nhân phẩm trò, giáo dục trò bằng sự thuyết phục.
Tác phẩm này thể hiện lòng yêu trẻ tha thiết, tinh thần dân chủ và chủ nghĩa nhân văn, tôn trọng tự do và nhân phẩm con người.” Tư tưởng sư phạm của nhà triết học Gian Giắc Rútxô được phản ánh trong các đề án cải cách giáo dục quốc dân của Pháp thời Cách mạng 1789 và có ảnh hưởng đến nhiều nhà tư tưởng – sư phạm, ví dụ như J. H. Pestalozzi, A. S. Makarenko, J. Dewey…
Như vậy, Émile hay là về giáo dục (Émile ou de l’éducation) được nhà triết học Gian Giắc Rútxô chia thành những giai đoạn như thế nào? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ở những mục dưới đây:
2. Giai đoạn đầu tiên – từ lúc mới sinh cho đến năm hai tuổi
Theo nhà triết học Gian Giắc Rútxô, giai đoạn đầu tiên đó chính là giai đoạn ngay từ lúc mới sinh cho đến năm hai tuổi, đứa trẻ cần nhất là được chăm sóc để phát triển thể trạng.
Theo ông, thật trái với tự nhiên, khi đứa trẻ vừa lọt lòng mẹ, mới tự do cử động chân tay đôi chút người ta đã vội vã “khâu” nó ngay vào trong tã nịt, lớn hơn một chút, người ta lại ràng nó vào một lô những phương tiện để tập bò, tập đi, người ta nhốt nó trong căn phòng tù túng thay vì cho nó chạy nhảy thoải mái giữa thiên nhiên và rồi sau đó, đứa trẻ bị cưỡng bức, nhồi nhét vô số những bài học lý luận buồn tẻ, chán ngắt… Đó là hành động lẩn tránh “sự cực nhọc” của người nuôi dưỡng và là lối giáo dục dã man, “hy sinh hiện tại cho một tương lai mơ hồ, gông cùm đứa trẻ bằng các xiềng xích đủ loại và bất đầu làm cho nó khổ sở để chuẩn bị trước cho nó một thứ hạnh phúc nào đó mà thiết tưởng nó sẽ không bao giờ được hưởng thụ”.
Với hình ảnh đứa trẻ được tự do ít khóc hơn đứa trẻ bị cuốn trong tã nịt là ngụ ý nói đến tự do như bản tính tự nhiên của con người. Hành động người nuôi dưỡng chỉ giúp đứa trẻ khi nó khóc xuất phát từ nhu cầu tự nhiên thực sự là cách giáo dục trẻ không bắt ai làm nô lệ cho nó ngay từ thuở lọt lòng. Việc vệ sinh thân thể, việc đi, đứng, ngồi, bò của trẻ cũng nên để trẻ thích nghi dần với điều kiện tự nhiên nguyên thủy, tránh tối đa sự trợ giúp bằng những phương tiện nhân tạo, có như vậy mới tạo được cho trẻ thân thể cường tráng, thích nghi tốt với môi trường xung quanh. Việc tập cho trẻ quen từ từ với bất kỳ một sự vật nào, dù là bóng đêm hay những hình thù kỳ quái, sẽ làm cho trẻ mất đi cảm giác khó chịu, sợ hãi, giúp trẻ “quen tự do và quen sử dụng sức lực của nó… giúp nó luôn luôn tự chủ và hành động theo ý nó”.
3. Giai đoạn hai tuổi tới mười hai tuổi
Tiếp nối với giai doạn trên, theo nhà triết học đó là giai đoạn từ hai tuổi tới mười hai tuổi.
Ở giai đoạn này, trẻ con chưa đủ lý trí để suy xét, cho nên việc giáo dục nó bằng lý luận dài dòng, bằng những lý lẽ của bổn phận sẽ không mang lại cho chúng sự am hiểu mà trái lại, chỉ làm chúng buồn chán, cảm thấy mất tự do. Cách đúng đắn nhất chính là đừng bao giờ ra lệnh cho nó làm điều gì cả, đừng để cho nó tưởng tượng rằng người lớn đòi hỏi một “uy quyền” nào đối với nó. Hãy hướng cho trẻ tự hiểu biết bản chất sự vật thông qua kinh nghiệm của chính nó.
Ví dụ như, thay vì giữ trẻ trong căn phòng tù túng, hãy đưa nó ra giữa cánh đồng bao la, cho nó tha hồ chạy nhảy để ở đó, đứa trẻ có thể ngã cả trăm lần, song cũng nhờ đó, nó có thể học được sớm hơn cách đứng dậy, có thể có những vết bầm tím, nhưng những thương tích đó sẽ được đền bù bằng sự khoan khoái được tự do, khi trẻ nghịch ngợm làm vỡ cửa kính, thay vì la mắng chúng, hãy để cho chúng bị rét trong căn phòng có cửa sổ vỡ đó, bởi hình phạt duy nhất có thể ảnh hưởng đến trẻ là hình phạt xuất hiện dưới mắt nó như kết quả của hành động xấu xa của nó, việc học chữ cũng đừng gượng ép làm gì, cứ để cho trẻ tự cảm nhận được rằng những cơ hội được mời đi chơi, đi ăn tiệc sẽ qua đi vì lý do nó không đọc được chữ trong các thiệp mời đó, nó sẽ tự khắc tìm cách học đọc, học viết…
=> Như vậy, ta có thể thấy quan niệm tự do trong giáo dục của nhà triết học Gian Giắc Rútxô đã được khẳng định: trẻ con được tự do trong hành động của nó, song đó là “tự do đúng mực thước”, tự do theo luật định, chứ không phải tự do vô độ. Đứa trẻ không bị ép buộc hành động theo mệnh lệnh của người khác, song hành động của nó lệ thuộc vào sự vật khách quan. Việc lệ thuộc vào sự vật khách quan, vào quy luật tự nhiên không làm sứt mẻ sự tự do vốn có của con người, mà chỉ có sự lệ thuộc vào ý muốn bất thường của kẻ khác mới biến con người thành nô lệ của con người mà thôi.
Nhà triết học Gian Giắc Rútxô viết: “Không nên nhúng tay vào việc giáo hóa một đứa trẻ khi ta không biết dìu dết nó bằng những luật “có thể được” và “không thể được”… Làm sao cho nó ý thức được trên cái đầu hiên ngang của nó, chiếc ánh khắt khe mà thiên nhiên đặt để cho con người, chiếc ách nặng trĩu của sự cần thiết bắt nguồn ở các sự vật chứ không bao giờ ở ý muốn bất thường của con người”.
Dưới con mắt trẻ thơ, tất cả mọi người đều bình đẳng, nhưng do không đủ lý luận để suy xét, nên nó không hiểu được những lý luận phân biệt sự khác nhau giữa những hạng người trong xã hội. Tuy nhiên, chúng lại dễ dàng hiểu được cái gì thuộc về chúng và cái gì không thuộc về chúng. Do đó, giáo dục cho trẻ em về mối tương quan giữa người với người trong xã hội phải luôn bắt đầu bằng ý niệm về quyền tư hữu. Cứ để Emile – đứa trẻ hư cấu mồ côi cả cha lẫn mẹ mà Rousseau đã nuôi dưỡng theo phương pháp giáo dục mới của ông, – lao động vất vả trong công việc đồng áng, công sức và niềm vui mà em đã bỏ ra gần đến lúc thu hái được thì bị người ta lấy đi, lúc đó “trong trái tim non dại của nó sẽ trào lên nỗi phẫn uất và nó sẽ hiểu thế nào là sự bất công”.
Với mục đích nhằm đảm bảo cho trẻ cảm thấy tự do và hứng thú cao độ trong việc học tập, nhà triết học Gian Giắc Rútxô đưa ra phương pháp giáo dục học mà chơi, chơi mà học. Theo ông, việc để cho trẻ khó nhọc tự tìm tòi, khám phá thế giới giữa thiên nhiên hoang dã sẽ kích thích ở nó óc sáng tạo và tinh thần tự chủ, đồng thời thông qua đó, trẻ tự tạo được sự tráng kiệt về thể chất, thích ứng với mọi điều kiện của thiên nhiên – điều kiện quan trọng giúp cho trẻ sống và làm việc sau này.
4. Nguyên tắc giáo dục trẻ con từ mười một đến mười lăm tuổi
Nguyên tắc căn bản của giáo dục trong giai đoạn từ mười một đến mười lăm tuổi là dẫn cho trẻ đến với ý niệm về “lợi ích”. Từ đây, câu hỏi “Cái đó có ích gì?” luôn là tiếng nói quyết định cho các hành vi trong đời sống của chúng, nó làm nảy nở sự thèm muốn nơi trẻ và trẻ có bổn phận tự tìm thấy điều đó, nó tránh cho trẻ sự nhạt nhẽo, ngu ngốc khi chọn môn học.
Ở trong mọi cuốn sách, chỉ có quyển “Robinson Crusoe” là đáng đọc, vì chỉ ở đó, trẻ em mới tìm thay một đề tài thú vị mà chúng có thể liên hệ với các sự vật thực sự trong thiên nhiên quanh chúng… Nói cách khác, giáo dục phải xuất phát từ quyền lợi của trẻ chứ không phải vì mục đích cao siêu nào khác.
Nhà triết học Gian Giắc Rútxô cũng đã chọn cho Emile nghề mộc, một nghề lao động chân tay vất vả nhưng lại “kiếm được ít tiền hơn hết”. Cái chính trong việc chọn nghề này là ở chỗ ông muốn Emile được “học nghề làm người”(6). Bởi lẽ, theo ông, nếu gạt bỏ mọi thành kiến thông thường thì nghề mộc là một nghề quan trọng và đáng kính, nó làm cho con người yêu lao động, biết vượt qua được những khó khăn và nhất là xây dựng được nơi họ sự đồng cảm với người nghèo – thành phần đông đảo nhất trong xã hội. Có lẽ đây là phần mà Rousseau hứng thú nhất, bởi ông đã gợi lại nỗi gian truân của đời mình qua những trang giáo huấn nghiêm túc về vị trí của người lao động trong xã hội.
5. Giai đoạn từ 15 tuổi đến 18 tuổi
Theo Nhà triết học Gian Giắc Rútxô, trẻ con từ 15 tuổi đến 18 tuổi, Emile bắt đầu được giáo dục về đạo đức và tôn giáo theo những tình cảm tự nhiên của nó, nghĩa là kích thích ở nó lòng từ bi, lòng trắc ẩn, lòng từ thiện và tất cả những tính cách hấp dẫn, dịu dàng mà con người tự nhiên ưa thích, ngăn cản những thói ghen tị, tham lam, độc ác có thể bị ảnh hưởng từ xã hội. Nói cách khác, nguyên tắc giáo dục trong giai đoạn này là phát triển bản tính tự nhiên của con người, loại bỏ khỏi con người những ảnh hưởng xấu của xã hội.
Theo Nhà triết học Gian Giắc Rútxô, mọi người sinh ra đều bình đẳng và theo bản tính tự nhiên thì không ai sinh ra là vua, là vĩ nhân, là đình thần, là giàu có, “tất cả sinh ra đều trần truồng và nghèo nàn, tất cả đều có thể bị nỗi cơ cực của đời sống, các nỗi buồn, các tai ương, các nhu cầu, các nỗi đau đủ loại, sau hết tất cả đều phải chết. Đó là thực trạng của con người, đấy là cái mà không người nào được miễn trừ”.
Thêm vào đó, bản chất con người là vị kỷ, họ chỉ quyến luyến đồng loại khi ý thức về nỗi đau hơn là về niềm vui, đồng thời, người ta chỉ thương xót kẻ khác về nỗi khổ mà bản thân họ không tin mình được miễn trừ.
Tư tưởng yêu tự do, công lý, tinh thần đấu tranh vì những người nghèo khổ, bị áp bức được Rousseau diễn đạt qua những lập luận rực lửa cách mạng: “Tại sao vua chúa không thương xót thường dân của họ, ấy là họ tin rằng họ không bao giờ là thường dân. Vì sao các người giàu lại khắc nghiệt với người nghèo đến thế? Ấy là vì một người quý phái tin rằng họ không bao giờ là một tiện dân. Rằng, quan niệm về hạnh phúc và nỗi khổ của con người như là cái gì đó được định sẵn thật là tai hại, đáng phải xóa bỏ, bởi nó làm cho “mỗi người cứ ở yên trong tình trạng của mình: kẻ nô lệ cứ bị ngược đãi, người tật nguyền cứ đau khổ, kẻ ăn mày cứ chết đi, vì không ích lợi gì cho họ để thay đổi tình trạng”.
=> Do đó, muốn hướng thanh niên đến lòng nhân đạo, cần phải chỉ cho họ thấy được khía cạnh đau buồn của số phận ấy và dạy cho họ hiểu rằng họ cũng có thể sa vào số phận của những kẻ vô phúc đó. Phải dạy cho trẻ để nó luôn nhớ rằng, con người đều như nhau trong tất cả các giai cấp, “chính nhân dân cấu thành nhân loại, cái gì không phải là nhân dân thì không mấy quan hệ đến nỗi không đáng kể đến… những giai cấp đông đảo nhất đáng được kính trọng nhiều nhất”. Vì vậy, tình thương yêu con người không nên chỉ bó hẹp trong một cộng đồng nhỏ bé, mà phải mở rộng ra tinh thần nhân loại chung, nghĩa là phải dạy cho trẻ em yêu mến tất cả mọi người. Cuối cùng, Emile cũng đã tự lựa chọn theo “tôn giáo tự nhiên” (luật tự nhiên theo cách lý giải của Rousseau) sau khi được tự do nghe Đức Cha trình bày ý kiến về Thượng đế. Đây cũng là điểm đặc biệt trong quan niệm về giáo dục tôn giáo của Rousseau, nó đối lập với kiểu nhồi nhét những thuyết giáo, những tín điều buộc con người phải chấp nhận.
Theo Nhà triết học Gian Giắc Rútxô, khi Emile đã trưởng thành, nó là hiện thân của mẫu người như Nhà triết học Gian Giắc Rútxô mong muốn, đó là: “tự chủ trong hành động của mình, từ điệu bộ, dáng vẻ, ánh mắt đều biểu lộ sự tự tin chứ không phải sự phục tùng hèn hạ của một tâm hồn nô lệ, cũng như không có thái độ hách dịch của một chủ nhân, nó không làm nô lệ cho ai, song cũng không bắt ai làm nô lệ cho mình, nó yêu hòa bình, đau khổ khi người khác đau khổ, mong muốn hạnh phúc và có thể góp phần tạo ra hạnh phúc, chia sẻ hạnh phúc ấy với mọi người, nó quan tâm đến những kẻ khốn cùng và không bao giờ hờ hững đối với những phương cách để chấm dứt những nỗi khổ của họ.” Emile được giới thiệu với Sophie – một cô gái cũng được giáo dục bằng phương pháp như Emile và ở họ có sự đồng điệu về tâm hồn, tình yêu nảy nở và dẫn tới hôn nhân. Cả Sophie và Emile sẵn sàng bước vào xã hội mà không sợ bị xã hội làm thay đổi. Hơn thế nữa, họ có thể trở thành những tác nhân quan trọng trong quá trình cải tạo xã hội.
Khi bàn về một số nhà triết học trước Rousseau gần hai thế kỷ, đó là Rabelais và Montaigne – họ cũng đã đưa ra quan niệm giáo dục chống lại việc tạo ra mẫu người nô lệ phục vụ cho nhà thờ và Nhà nước phong kiến, thông qua cá nhân tác động đến xã hội, cải tạo con người để cải tạo xã hội. Mặc dù vậy nhưng vì Rabelais và Montaigne là những nhà nhân văn Phục hưng, sống trong bối cảnh lịch sử khác với thời của Nhà triết học Gian Giắc Rútxô, nên về nội dung tổng quát, lý luận giáo dục của Nhà triết học Gian Giắc Rútxô vẫn chứa đựng nhiều điểm khác biệt so với các bậc tiền bối, mặc dù ông đã tiếp thu nhiều ở Rabelais và Montaigne trong quan niệm nhân văn về giáo dục – bảo đảm sự tự do, thoải mái cho người học, không gò bó, cưỡng ép, kết hợp học với hành, học để con người có thể sống trong thế giới trần tục của mình theo đúng quy luật tự nhiên của bản chất con người… Rabelais chống lại chính sách ngu dân bằng cách đưa ra chương trình giáo dục thiên về trí dục, đào tạo con người biết nhiều kiến thức về mọi phương diện, cốt sao cho học trò của ông biết mọi thứ trên đời để có thể vùng vẫy trong một nền tự do vô điều kiện, giáo dục của Montaigne hướng tới “nghệ thuật sống”, thiên về đức dục, giải quyết nhiệm vụ mà thời đại đặt ra là khôi phục hòa bình, bảo đảm trật tự an ninh cho xã hội, bởi đây là giai đoạn khói lửa binh đao. Locke tiến sâu hơn Montaigne, đi vào các chi tiết cụ thể, chủ trương phát triển con người toàn diện cả về cơ thể lẫn tri thức, song mẫu người mà Locke đào tạo là một gentelement thuộc tầng lớp quý tộc và tư sản cao. Còn với Nhà triết học Gian Giắc Rútxô, đối tượng của giáo dục là mọi công dân, mục đích giáo dục là hướng đến việc “học làm người”, người công dân sống theo phương châm tự do, bình đẳng, bác ái. Cũng như các bậc tiền bối hay các nhà giáo dục đương thời, lý luận giáo dục của Nhà triết học Gian Giắc Rútxô mang nhiều yếu tố không tưởng và bất cập.
III. Kết thúc vấn đề
Như vậy. ta có thể thấy rằng, cho đến nay, “Émile hay là về giáo dục” của nhà triết học Gian Giắc Rútxô vẫn là một tác phẩm được đọc nhiều nhất và phổ cập nhất về đề tài này. Cụ thẻ như ở đất nước Nhật Bản, họ bắt buộc tất cả các giáo viên mầm non phải đọc cuốn sách này trước khi bước vào nghề.
(MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).